Chân tướng
Mật Tông Tây Tạng

Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.

Tiết 3: Sau khi hành pháp Tru thì phải thí đồ ăn bẩn cho quỷ thần

Sau khi thực hiện pháp Tru, nhất định phải bố thí đồ ăn bẩn cho quỷ thần:

“Lại nữa, cũng có nói rằng: ‘trong ba pháp Tức Tăng Hoài, đồ ăn sạch đặt lên trên đồ ăn bẩn (khi hành giả Mật tông hưởng dùng đồ ăn thức uống, không được ăn hết mà phải lưu giữ lại một ít, đợi thu dọn từ dưới lên trên, trở thành ‘đồ cúng thừa bẩn’ để cúng cho quỷ thần); còn trong pháp Tru thì đồ ăn bẩn đặt lên trên đồ ăn sạch’.

A xà lê nếu là người có “Kiến địa mật ý (đã xác thực chứng được mật ý Lạc Không song vận của Song thân pháp)”, trì chủ tôn Phật mạn, quán Bồ Đề tâm cam lộ mà phụ Mã Đầu Vương Minh và mẫu Du Già Nữ giao hợp chảy ra (dâm dịch chảy ra khi Phật Phụ và Phật Mẫu giao hợp), sau khi trộn với Tam muội da thì tẩm ướt (lấy rượu trộn với dâm dịch có được khi mình hưởng lạc trong Song thân pháp – còn gọi là cam lộ Tam muội da - rồi dùng miệng ngậm phun lên đồ cúng). Thông thường dùng rượu thuốc máu cũng có thể gia trì (rượu thuốc máu cũng có thể gia trì cho đồ cúng). Khi thủ hộ, vì gặp nhau xung phạm nên đốt đèn lửa, sau khi hô hoán danh hiệu bảy chỗ dưới (hô gọi danh hiệu các quỷ thần bảy chỗ dưới như La sát…), cúng dường và dặn dò sự nghiệp (dặn dò sự nghiệp tru sát người khác của bọn họ), những người kia theo đó niệm Tam muội da (các quỷ thần đó nhớ kỹ lời dặn dò này chắc như đinh đóng cột, không dám quên), chỗ ta đội lên như chuỗi châu trên đầu, thành biện vô ngại bất kỳ sự gửi gắm nào (có thể tru sát người khác mà không có trở ngại gì). Cuối cùng, sự nghiệp Kim Cương (ở đây là nói người tu pháp Tru) đội giày, đến chỗ đất cách 70 bước bên ngoài phòng tu (đi đến khu vực cách 70 bước bên ngoài phòng tu pháp Tru), là chỗ cọc La sát (chỗ này là cọc rào lập ra để cúng dường La sát), đặt xuống (đặt đồ cúng), rồi lại súc rửa đồ đựng thức ăn (sau khi đặt ổn định thì lấy bình nước xối rửa khay đựng đồ cúng). Nước súc nói đến ở đây (sau khi hiến đồ ăn thừa cho La sát ở chỗ 70 bước bên ngoài phòng, nước trong bình dùng để xối rửa đồ đựng) không cần hồi thí. Cuối cùng, năm loại chủng tính bảy chỗ trên (thiên chúng) thu nhiếp vào thân mình, các tân khách khác (các khách khứa là thiên chúng bảy chỗ trên được mời đến) thì đi về, dần biến mất.

Lại nữa, lược bỏ những chỗ khác nhau, ‘Nghi quỹ đàn thành chân thực’ nói: ‘Quán trên đồ ăn thừa, thiên chúng bảy chỗ trên lập tức hiển hiện, thiên chúng hiện hành các loại cúng thí với thực tử để cúng dường thiên chúng. Thiên chúng thực tử chui vào thân mình xong, quán thực tử (đồ ăn) trộn thành cam lộ hải. Sau đó thì nghênh thỉnh chúng sinh bảy chỗ dưới, cúng năm chủng tính tụ hội, sau khi tẩm ướt đồ ăn bẩn thì hồi thí (trên đồ cúng thừa bẩn, lấy hỗn hợp dâm dịch lấy được từ quá trình hưởng lạc Song thân pháp – còn gọi là cam lộ Tam muội da – ngậm miệng phun lên đồ cúng thừa đó để hồi thí cho họ)’” (158-357, 359).

Những điều thuật ở trên là chỉ sau khi tu pháp Tru, phải úy lạo các chúng sinh La sát, cho nên phải dùng đồ ăn thừa bẩn đã tẩm ướt để cúng cho quỷ thần tham dâm hung hãn. Lại phải chú ý cọc rào cúng La sát không được đặt ở trong nhà mà phải bày ở bên ngoài nhà, chỗ cách xa 70 bước, không được để các quỷ thần La sát đó tiến lại gần chỗ mình ở để tránh hậu họa. Đó là nhận thức chung của những người tu pháp Tru trong Mật tông.

Về cái gọi là Phật mạn: “Tinh ý của Khởi phần là ở chỗ Phật mạn kiên cố. Thế nào là Phật mạn kiên cố? Là chỉ hành giả tự quán mình thành Phật, nhất tâm không chút nghi ngờ. Như người tu pháp này, phải tự quán mình là Không Hành Mẫu Na Lạc, nhất tâm thực hiện quán tưởng như thế, không được có chút hoài nghi nào. Nếu tu pháp mà không tự quán mình là Phật thì tất không đúng pháp” (62-61).

Thế nhưng, việc cúng dường nhìn chúng sinh thiên giới thụ nhận thực tử (lấy đồ ăn nắm thành một nắm gọi là thực tử) trong pháp Tru này kỳ thực hoàn toàn vô nghĩa lý. Vì với thiên nhân ở các tầng trời Dục giới, ngũ dục và ẩm thực mà họ thụ hưởng hàng ngày đều thắng diệu gấp nhiều lần so với ở nhân gian, làm gì có ai chịu nhận đồ cúng dường bằng thức ăn thô bẩn ở nhân gian? Ví dụ, trưởng giả đại phú ngày thường đều ăn uống những đồ cao lương mỹ vị, đương nhiên sẽ không chịu nhận cúng dường đồ ăn bẩn mà người hành khất ăn xin được của người khác. Các thiên chúng ở Dục giới thiên cũng như vậy, làm sao chấp nhận đồ ăn cúng dường thô bẩn của nhân gian được? Cho nên, cúng dường thực tử đó cho thiên chúng, thì kẻ nhận cúng kia thực chất không phải là thiên chúng ở Dục giới.

Ngoài ra, cũng không hề có thiên chúng ở Sắc giới đến nhận cúng dường. Vì sao vậy? Vì thiên chúng ở Sắc giới không ăn những đồ ăn thức uống của Dục giới Lục thiên và nhân gian. Ngày thường họ cũng không ăn uống, duy chỉ lấy thiền duyệt làm thức ăn để trưởng dưỡng thiên thân, cho nên chắc chắn rằng không thể có thiên nhân ở Sắc giới đến nhận sự cúng dường của họ. Càng không hề có thiên nhân ở Vô sắc giới đến thụ nhận sự cúng dường, vì thiên nhân ở Vô sắc giới không có sắc thân, không nhận bất kỳ đồ ăn nào, duy chỉ có Thức thực. Họ thường xuyên trụ trong Tứ không định, không hề tương ứng với sự cầu khấn của nhân loại, sao có thể đến nhận đồ cúng thức ăn thô tục của nhân gian được? Tuyệt không thể có cái lý đó! Cho nên, “thiên chúng” đến nhận cúng dường trong pháp Tru này, thực chất là các loại quỷ thần có đại phúc, tuyệt đối không phải là thiên nhân đến nhận cúng dường.

“Phật pháp” mà Mật tông nói từ đầu đến cuối đều lấy Song thân pháp làm nòng cốt, vì thế cho đến khi họ tu pháp Tru và muốn tru sát người khác, cũng vẫn lấy ngũ cam lộ như hỗn hợp dâm dịch rồi cho vào miệng phun tưới lên đồ ăn (thực tử), để cúng dường quỷ thần. Quỷ thần bị pháp Tru sai khiến kia cũng chỉ thuộc dòng La sát, Dạ xoa. Bọn chúng đều rất thích ăn máu và tinh khí dâm dịch của con người, vì thế Mật tông vẫn cúng dường cho chúng bằng pháp ấy, bởi phải dùng những vật đó thì mới có thể sai khiến được chúng. Pháp Tru đã như thế, thì các pháp Tức, Tăng, Hoài cũng khó tránh khỏi việc dùng đồ cúng cam lộ dâm dịch rồi. Nếu như có người nào làm cúng lửa mà không dùng ngũ nhục và ngũ cam lộ, thì tức là tu pháp cúng không như pháp. Thông qua việc này, những người có trí tuệ có thể biết được pháp cúng lửa Tức, Tăng, Hoài, Tru trong Mật pháp rất tà trái hoang đường, đồng thời cũng hiểu rõ thêm về sự tà trái hư vọng trong pháp nghĩa của Mật tông.

Thông thường mà nói, bốn pháp Tức, Tăng, Hoài, Tru sẽ được thực hiện riêng biệt, không tiến hành cùng lúc. Thế nhưng ở đất Tạng cũng có lúc thực hiện bốn pháp đồng thời: “Tức, Tăng, Hoài, Tru cũng như Sơ quán, Nhị quán, Tam quán, Tứ quán. Ở Tây Tạng cũng có lúc thực hiện một lần tổng hợp, như trong cuốn “Tốc thành bốn loại sự nghiệp” do Bất Động Kim Cương của Cát Mã Ba biên soạn đã đem bốn pháp Tức, Tăng, Hoài, Tru viết chung một chỗ để cùng thực hiện. Thày Cống từng dịch ra theo lời thỉnh cầu của người Tương, tôi cho rằng như thế không hợp pháp lý” (34-173). Đây chỉ là thuyết ngoại lệ, cho nên Thượng sư Trần Kiện Dân cho rằng việc thực hiện đồng thời là không đúng pháp lý, vì như thế là trái ngược với lẽ thường của thế gian.

 

 


Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 0