Chân tướng
Mật Tông Tây Tạng

Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.

Tiết 3: Nguyên nhân Mật giáo hưng và Phật giáo vong

Có 7 nguyên nhân khiến cho “Mật giáo hưng và Phật giáo vong” ở Thiên Trúc khi xưa:

Thứ nhất: Lấy pháp ngoại đạo thay thế cho Phật pháp. Mật tông thực chất không phải là Phật giáo, chỉ là tôn giáo lấy pháp ngoại đạo thay thế cho Phật pháp – là ngoại đạo pháp lấy biểu tướng của Phật giáo và danh tướng của Phật pháp bao bọc bề ngoài – tất cả các danh tướng tu chứng và sự tu chứng Pháp Báo Hóa thân cho đến các loại tam muội đẳng chí, tứ gia hành, tứ vô lượng tâm, Pháp giới Thể tính trí, tứ trí, ngũ trí, Bát Nhã, Căn bản trí, Hậu đắc trí, Niết Bàn, Chân Như, đạo thành Phật…mà họ nói đều khác với nội dung ý chỉ mà Phật Thế Tôn đã nói trong các kinh điển Tam thừa. A Lại Da thức mà Mật tông chứng được cũng không phải là Thức thứ tám tâm A Lại Da mà bên Hiển giáo chứng được, chỉ là A Lại Da thức Minh điểm mà họ tự bày đặt ra mà thôi, cho nên tất thảy các bậc hiền thánh trong Hiển giáo với chứng lượng của mình khi ấn chứng cho họ, chắc chắn sẽ thấy không dính dáng gì, đều là râu ông nọ cắm cằm ba kia.

Như vậy, Mật giáo với việc không chứng được Thực Tướng Tâm nói trong các kinh Phật giáo, với các loại “Bát Nhã vọng tưởng” mà chưa từng chứng được trí tuệ Bát Nhã nói trong các kinh Phật giáo, với “trí tuệ dâm uế thế gian của ngoại đạo Song thân pháp” chưa từng nhập vào Kiến đạo vị của mình, họ ngược lại còn quay sang vu oan cho các Bồ Tát chân ngộ của Hiển giáo là có chứng lượng thô thiển, hạ thấp xuống là pháp môn tu hành “Nhân địa”, đồng thời lại tự tôn cao pháp ngoại đạo mà mình tu hành là pháp môn tu hành “Quả vị” của Phật giáo, qua đó để sùng Mật ức Hiển, thật nực cười vô cùng. Như vậy, chứng lượng mà những người trong Mật giáo nói vừa không có liên quan gì đến tu chứng trong các kinh điển Tam thừa, vừa sùng thượng Đệ tứ hỷ của Song thân pháp – truy cầu lạc thụ có tầng thứ cao nhất trong dâm lạc nhân gian, hiển nhiên chỉ là “nghệ thuật dâm lạc thế gian” của phái Tính Lực ngoại đạo mà thôi. Cho nên, Mật giáo căn bản chỉ là thuật dâm lạc thế gian được bao bọc bằng biểu tướng và danh tướng Phật giáo, tuyệt đối không phải là Phật giáo, thuần chất chỉ là Lạt Ma giáo thôi.

Vì duyên cớ đó, ngay từ thời xưa đã từng có người nói họ là pháp hữu phân biệt, pháp hý luận, pháp bất liễu nghĩa, chủ trương không được tu theo họ. Như Tông Khách Ba từng biện bạch hộ Mật giáo thế này: “…Vì thế mà có người nói ‘Hành phẩm mà Ba La Mật Đa thừa nói là bất liễu nghĩa, là pháp hý luận, chỉ nên tu Không’ và nói ‘Sinh khởi thứ đệ, tu trì niệm tụng Mật chú là có phân biệt, là pháp hý luận, là bất liễu nghĩa, nếu biết liễu nghĩa thì không phải tu’. Hai thuyết đó hoàn toàn không phải chân thực, những người có trí nên tránh xa, nên xả bỏ. Nên hướng đến song vận đạo phương tiện trí tuệ (nên chuyển sang song vận đạo là đạo phương tiện thụ lạc mà không xuất tinh và đạo trí tuệ chứng biết Lạc Không bất nhị mà có thể Lạc Không song vận), song vận đạo sinh khởi viên mãn (pháp đạo viên mãn sinh khởi Đệ tứ hỷ), tu học dần theo thứ tự, hiểu rõ thâm nghĩa trung đạo vĩnh lìa hý luận, nương dựa vào các Tam muội da (dựa vào Tam muội từ Sơ hỷ cho đến Đệ tứ hỷ của Song thân pháp), hướng nhập vào quỹ đạo đại xa hai lý đầy đủ” (21-458).

Thế nhưng những lời lẽ đó của Tông Khách Ba quả thực không thông sự lý chút nào. Đó là vì pháp của Mật giáo không chỉ Song thân pháp (giai đoạn) cuối cùng là tà trái hoang đường, hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp, mà cho đến những pháp như trì chú, quán tưởng, Minh điểm, bảo bình khí, cúng lửa…ban đầu cũng đều hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp. Nếu như có người thiện biết Bát Nhã liễu nghĩa, thì anh ta sẽ thấy ngay được các pháp trì chú, quán tưởng, bảo bình khí, cúng lửa đều là “vọng tưởng tu chứng Phật pháp của phàm phu”. Vì thế, nếu như có người trí sau khi chứng ngộ, phát khởi trí tuệ Bát Nhã như Đạo chủng trí thì tất sẽ phát biểu như vậy. Còn Tông Khách Ba tù mù không biết điều này, còn ra sức biện hộ cho các pháp trì chú, quán tưởng… của Mật giáo, rõ ràng không phải là người có trí tuệ.

Thế nhưng vì Mật giáo giỏi ứng hợp tâm lý cầu hữu, cầu thế gian pháp của chúng sinh cho nên mới tuyên truyền rộng rãi Mật pháp này; đồng thời lại khéo xuyên tạc phụ họa các loại danh tướng quả vị trong kinh Phật, lừa dối những người học sơ cơ, khiến cho người ta tin là thật, không dám sinh nghi. Lại vì họ biết sáng chế ra giới Tam muội da, khiến cho các đệ tử không dám tiết lộ pháp nghĩa của Mật giáo, dẫn đến người ngoài không sao biết trộm được sự tà trái của họ. Bằng thủ đoạn đó, Mật giáo đã phòng ngừa được việc bị người ngoài phá hoại, đồng thời nhờ đó mà dễ dẫn dụ những người học Phật sơ cơ không biết nội tình lao vào trong Mật giáo, giẫm lên vết xe đổ của những người đã vào Mật giáo trước đó, qua đó khuếch trương thế lực của mình, tận thu tài nguyên của Phật giáo, cuối cùng dần dần từng bước thay thế Phật giáo – mận thay đào chết – diệt vong Phật giáo chân chính.

Thứ hai: Mượn thế lực chính trị để mở rộng Mật giáo. Mật giáo giỏi bám víu vào thế lực chính trị - ví dụ như bám víu vào vương triều Ba La – dựa vào đó để nhanh chóng mở rộng thế lực của mình. Vì trong vương triều Ba La có nhiều kẻ quyền quý tin theo Mật giáo nên khiến cho bách tính hiểu nhầm rằng Mật giáo đúng là Phật giáo. Đợi khi Mật giáo hưng thịnh lên rồi, thì họ bèn đem pháp Đại thủ ấn, đại viên mãn của thường kiến ngoại đạo ra dẫn dắt sai lầm cho chúng sinh, cuồng ngôn nói Mật giáo có pháp có thể khiến chúng sinh thời mạt pháp “tức thân thành Phật”, nhờ đó mà khiến cho sự tu chứng của “những người học Phật giáo” bị đánh đồng với thường kiến ngoại đạo. Sau khi chuyển dịch nội hàm của Phật giáo xong, thì Phật giáo đã bị tưởng lầm thành thường kiến ngoại đạo không khác, bị đánh đồng với pháp môn tu hành của Ấn Độ giáo không hai, đã không còn chỗ nào thắng diệu hơn ngoại đạo nữa, khiến cho người ta không còn sinh lòng kính ngưỡng, những người tin tưởng Phật giáo ngày càng giảm sút, cuối cùng chỉ còn lại pháp sùng bái quỷ thần của Mật giáo cùng với Trung Quán phái Tự Tục chỉ có ngôn thuyết biểu tướng Phật pháp và Trung Quán phái Ứng Thành của Vô nhân luận. Phật giáo chính thống đã bị thoán cải trở thành “Phật giáo” Mật tông, đã không còn giáo pháp và thực chất của Phật giáo nữa. Phật giáo chân chính đã bị diệt vong bởi tay Mật giáo một cách hòa bình và bất tri bất giác như thế đó.

Khi vương triều Ba La bị tiêu diệt, “Phật giáo” cũng bị diệt theo nó kỳ thực chỉ là Mật giáo – Mật giáo được bao bọc bởi vẻ bề ngoài của Phật giáo. Phật giáo thực sự đã bị Mật giáo tiêu diệt ngay từ khi vương triều Ba La còn đang quật khởi hưng thịnh rồi – khi đó chỉ còn lại tấm da của Phật giáo mà thôi, còn nội tạng máu huyết và xương cốt đều đã là bản chất của ngoại đạo pháp Mật giáo rồi. Chính vì lý do đó, thuyết “Phật giáo bị tiêu diệt bởi quân đội Hồi giáo” chỉ là lời nói của những kẻ không biết chân tướng sự việc, là những ngôn từ của Mật tông nhằm đánh lạc hướng những người nghiên cứu Phật giáo mà thôi. “Phật giáo” mà bị quân đội Hồi giáo tiêu diệt chỉ là ngoại đạo Mật tông đã thay thế cho Phật giáo chân chính, tuyệt đối không phải là Phật giáo thực sự nữa. Do đó, thủ đoạn mượn dựa vào thế lực chính trị để thoán đoạt Phật giáo chính thống là một phương thức thường dùng của Mật tông vậy.

Hiện tượng khéo dựa vào thế lực chính trị này không chỉ xuất hiện ở “Phật giáo thời kỳ cuối” ở Tây Tạng, tương tự còn từng xuất hiện ở “Phật giáo Tây Tạng” sau này nữa. Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 5 đã từng dựa vào quân đội Khả Hãn Mông Cổ và thế lực chính trị triều Thanh để khiến cho phái Giác Nãng Ba không có chỗ cầu viện, sau đó đã kêu gọi phái Tát Già và Đạt Bố liên thủ đánh giết phái Giác Nãng Ba hoằng truyền pháp Như Lai Tạng, trục xuất lãnh tụ đời cuối cùng Đa La Na Tha một đời truyền bá pháp Như Lai Tạng, bài bác Song thân pháp, ép bức tất cả tự viện của phái Giác Nãng Ba phải đổi sang Hoàng giáo. Phái Giác Nãng Ba sau đó bị diệt vong, chỉ còn lại biểu tướng (vẻ bề ngoài) có truyền thừa pháp hệ, còn diệu pháp Như Lai Tạng từ đó đã mãi mãi tuyệt duyên với nhân dân Tây Tạng. Những việc này đều là sự thực do Mật giáo quá giỏi trong việc lợi dụng sức mạnh chính trị nhằm khuếch đại thế lực của tông phái mình.

Những hành vi đó của các pháp vương, các thượng sư xưa nay của Mật tông đều trái ngược giáo ngôn của Phật Đà, cũng trái ngược với giới luật, dẫn dắt sai lầm chúng sinh cùng bước vào trong trọng tội tà kiến phá hoại chính pháp, thực không phải là việc nên làm chút nào. Vì thế mà tôi chủ trương chính giáo phân ly, không đồng lưu ô hợp với “chủ trương chính giáo hợp nhất” của Mật giáo Tây Tạng. Vì sao vậy? Vì việc thực hiện chính giáo hợp nhất vốn dĩ đã là trái với giới luật mà Phật đã quy định, cũng tất khiến cho hành vi công khai biện chính pháp nghĩa mãi mãi bị vùi dập, như vậy thì cái lý chân thực sẽ không thể nào hiển lộ thông qua việc biện chính pháp nghĩa công khai nữa. Như thế thì pháp vương Mật giáo lãnh tụ tôn giáo tối cao sẽ có thể độc tài toàn diện mà hoằng truyền tà pháp Mật giáo. Càng phát triển tà giáo thì sẽ ngày càng thối nát, sẽ khiến cho pháo nghĩa chân chính của Phật giáo khác với họ sẽ không được hoằng truyền, tiếp tục đem tà kiến của họ đầu độc toàn diện sinh linh. Cho nên, hành vi chính giáo hợp nhất sẽ có trăm hại mà không có lấy một lợi đối với Phật giáo chân chính, cũng trái ngược với phong trào tự do tín ngưỡng tôn giáo, vì thế mà không nên thực hiện. Như trên đã nói, vì Mật giáo rất giỏi trong việc bám víu lấy thế lực chính trị, dựa vào đó để tiêu diệt Phật giáo chân chính – pháp Như Lai Tạng của Hiển giáo, dẫn đến kết quả Mật giáo hưng mà Phật giáo vong.

Thứ ba: Khuếch đại chứng đức chứng lượng. Các thượng sư Mật giáo xưa nay vẫn thường rất khéo trong việc thổi phồng chứng đức chứng lượng, mê hoặc chúng sinh, lấy đó làm thủ đoạn mở rộng thế lực của Mật giáo, cuối cùng nuốt lấy và thay thế Hiển giáo, diệt vong Phật giáo. Những hành vi như thế ví dụ rất nhiều, đời nào cũng có, cho đến nay vẫn chưa dứt tuyệt. Ví dụ như A Vương Nặc Bố mà Hội Chính Giác Vân Từ ở Đào Viên ngày nay tôn sùng – đại sư Vô Ngã Mẫu – là một trường hợp điển hình. Hay như Hỷ Nhiêu Căn Đăng cực giỏi tuyên truyền, khéo dựa nhờ vào phóng viên truyền thông, đem những lời lẽ quảng cáo, khéo biên thành kịch bản phỏng vấn, đăng lên báo, tung ra những ngôn thuyết không đúng sự thực, đó cũng là ví dụ thực tế thổi phồng chứng lượng của Mật tông.

Ví dụ những người như Hỷ Nhiêu Căn Đăng thường nói rằng: Chứng lượng của A Vương Nặc Bố ngang với Phật Thích Ca Mâu Ni. Sự khoác lác về “chứng đức chứng lượng” như thế là nhằm kiếm lấy sự cung kính của chúng sinh vô tri, hòng có được nhiều danh văn lợi dưỡng. Việc này có sách báo làm chứng: Lời quảng cáo bản thứ 20 của Nhật Báo Đài Loan ngày 7.3.1999 nói rằng: “Những người đạt đến cấp đạo cảnh ngũ pháp luân gồm có Thích Ca Mâu Ni, đại sư Liên Hoa Sinh, đại sư Mã Nhĩ Ba, đại sư Tông Khách Ba, đại sư Vô Ngã Mẫu và Quán Thế Âm Bồ Tát đã đạt đến cảnh giới Phật Đà”. Kỳ thực trong số các “đại sư” Mật tông xưa nay mà họ liệt kê ra, không có lấy một người từng đắc một trong những Kiến đạo của Tam thừa, đều đọa vào trong thường kiến ngoại đạo, còn không phải là Bồ Tát thất trụ hiền vị chứng ngộ, huống hồ là thành Phật? Thế mà họ lại dám cuồng vọng bám víu vào chứng đức và chứng lượng của Thích Tôn, chẳng khác gì kẻ ăn mày khoác một cái áo cũ rách nát hoa lệ, đứng ở nơi biên thùy hoang vu mà tự cho mình là vua, vọng bám vào quốc vương coi là bạn bè chí cốt, thế nhưng chúng nhân không biết, lại tin là thật, chẳng khác nhau là mấy.

Những kẻ đó nói như thế ở Đài Loan, sau khi tranh ngôi chính thống Mật giáo ở Đài Loan xong, thấy giới Mật giáo ở Đài Loan không phản bác mình, lại bỏ ra một khoản tiền lớn chiêu tập các Lạt Ma Mật tông khắp nơi trên thế giới có liên quan đến họ, tụ hội ở khách sạn Viên Sơn Đài Bắc, tổ chức cái gọi là Hội nghị cao tăng của “Tổng hội Phật giáo thế giới”, qua đó nhằm tôn cao chứng lượng ngoại đạo ăn bám Mật tông như Nghĩa Vân Cao và A Vương Nặc Bố, rồi khắp nơi tìm cách hạ thấp Hiển giáo, muốn tranh ngôi chính thống với Hiển giáo. Đáng thương thay cho các đại sư Hiển giáo, thấy thế lực mở rộng và tác phong hoành hành của họ, nhưng lại không có một người nào dám đứng ra bài bác, biện luận và phân tích sự tà trái của chúng, cứ thế ngồi giương mắt nhìn những người học sơ cơ ngộ nhận rằng họ mới thực sự là Phật giáo, dẫn đến rất nhiều tỳ kheo, tỳ kheo ni cũng tham gia vào Hội, tu học theo họ, đều rơi vào trong tà kiến của ngoại đạo.

Đó là một trong những pháp thường dùng từ xưa đến nay của Mật giáo – thổi phồng “chứng đức chứng lượng”, khiến cho người ta sinh lòng kính tín, không dám hoài nghi, chỉ biết tin theo họ. Kỳ thực, bọn họ căn bản chỉ là ngoại đạo, không có chút tơ hào chứng lượng và chứng đức nào. Đài Loan ngày nay cũng có những người theo tín ngưỡng dân gian ăn bám theo Mật tông: Những người như Hỷ Nhiêu Căn Đăng của Hội Chính Giác Vân Từ bắt chước, dựa vào việc tôn cao đám Nghĩa Vân Cao, A Vương Nặc Bố, Ngưỡng Ngạc Ích Tây Nặc Bố…để lừa dối người học sơ cơ Phật giáo ở Đài Loan. Thời gian ngày càng kéo dài, khi thế lực của họ được khuếch đại đến cực hạn, thì Phật giáo sẽ vì thế mà bị đám ngoại đạo đó thay thế hoàn toàn, dẫn đến diệt vong – chỉ còn lại vẻ bề ngoài mà nội hàm thực chất lại là “Phật giáo Mật tông” của ngoại đạo, bản chất thuần túy là Lạt Ma giáo hoặc ngoại đạo ăn bám Mật giáo khác tương tự như “Hội Chính Giác Vân Từ”. Trước những lời lẽ hư vọng khoác lác về chứng lượng như thế, nhưng vì đại sư các đạo tràng lớn khắp nơi đều không đứng ra biện chính, dần dần tạo thành kết cục Mật giáo hưng mà Phật giáo vong. Cho nên nếu Phật giáo bị diệt bởi tay Mật tông, thì các đại pháp sư, đại cư sĩ đó đều không thể thoái thác trách nhiệm.

Thứ tư: Thỏa mãn thị hiếu của chúng sinh. Mật giáo rất khéo dùng pháp cúng lửa, sai khiến quỷ thần dùng tiểu thần thông của chúng để trị bệnh, cầu tài, cầu tự cho chúng sinh … thỏa mãn thị hiếu của đám đông.

Họ cũng rất giỏi trong việc dùng các pháp hữu vi như khí công tăng cường sức khỏe để thỏa mãn nhu cầu của chúng sinh. Lại dùng Song thân pháp để đáp ứng thị hiếu của đám đông, khiến cho chúng sinh yêu thích dâm lạc mà không thể lìa bỏ, chạy vào trong Mật giáo để hưởng lạc và ngộ nhận cho rằng đó là tu học Phật pháp giải thoát và trí tuệ Bát Nhã. Pháp tu song thân đó cực dễ thu hút chúng sinh hữu tình lao vào hưởng thụ dâm lạc, bước vào đạo pháp Mật tông. Một khi đã sa chân vào Mật giáo rồi, sẽ buộc phải phát lời thề nặng 14 giới căn bản, thì sẽ vì sợ hãi mà không dám tiết lộ những sai trái cuả Mật giáo. Lại vì sợ người ta chê cười mình tham dâm, hoặc sợ người đời chế giễu mình ngu si, nên không muốn công khai nói ra ngoài rằng mình đã từng tu học Mật pháp, cũng không dám công bố những tội lỗi của Mật giáo. Còn có nhiều phụ nữ vì đã từng hợp tu Song thân pháp với nam thượng sư, thấy tình phận riêng biệt, hoặc tâm sinh cảm mến mà sinh lòng yêu đương với thượng sư, nên càng không dám tiết lộ sai trái của Mật giáo.

Mật giáo vốn đã giỏi nghề thỏa mãn thị hiếu đám đông mà nghênh hợp họ, lại vì các nguyên nhân khác, dẫn đến người ngoài không thể nào biết được sự tà trái, hoang đường và tội lỗi của họ, chạy theo nhân duyên bề ngoài mà lao vào trong Mật giáo, khiến cho thế lực Mật giáo càng dễ nhanh chóng lớn mạnh. Sau khi lớn mạnh, thì nó sẽ khiến cho nguồn tài nguyên của những người hoằng truyền chính pháp Hiển giáo bị chèn ép, đè bẹp, khó mà khai triển được.

Lại nữa, Mật giáo còn sáng tạo ra thuyết tức thân thành Phật, khiến cho người ta sinh lòng ngưỡng vọng. Nhị thừa Bồ Đề của Hiển giáo do cách thánh vị quá xa, cho nên các đại sư thời mạt pháp đều không biết không chứng, muốn trở thành người Sơ quả Thanh Văn còn không thể được, nên càng không dám khởi tâm dục cầu chứng pháp La Hán Thanh Văn đoạn trừ Ngã chấp. Đại thừa Bồ Đề thì càng khó gấp bội phần, muốn cầu chứng ngộ Bát Nhã cực khó, cho nên xưa nay đều có tọa chủ giảng kinh của các đạo tràng lớn có đại thanh danh, sau khi giảng pháp 30 năm thì tâm hư đảm khiếp, bèn bỏ giảng pháp mà vào rừng tham thiền, cho đến khi già chết vẫn không thể ngộ nhập.

Việc chứng ngộ Bát Nhã Đại thừa đã khó gấp bội phần như thế, cho nên thông thường những người học Hiển giáo tu Phật pháp lâu ngày mà không thể ngộ nhập, sẽ không tránh khỏi việc vì có Mật giáo xướng thuyết “tức thân thành Phật” nên đã thử chuyển sang Mật tông tu học Mật pháp, để cầu chứng ngộ Phật pháp. Thế nhưng, vì không biết uẩn khúc nội tình của Mật giáo, lại vì cả hai huệ nhãn, pháp nhãn của bản thân đều yếu kém, cho nên đã bị Mật giáo trùm đầu, theo họ đi vào đường ác. Đợi sau này khi bị Song thân pháp dụ dỗ mà không thể tự bứt ra, sẽ càng không thể thoát khỏi đường mê. Mật giáo Thiên Trúc khi xưa đã khéo thỏa mãn thị hiếu của chúng sinh, lấy tham dục để xướng ngôn tức thân thành Phật, thu hút chúng sinh vào cửa tà của họ, dần dần mở rộng thế lực, tằm nuốt kình thôn, đương khi chúng sinh bất tri bất giác, đã từ từ thay thế Hiển giáo, vì thế mà Phật giáo ở Thiên Trúc đành cáo lời diệt vong.

Thứ năm: Vì chúng sinh Thiên Trúc khi đó phúc mỏng mà diệt vong. Sự hoằng truyền của Phật giáo Thiên Trúc khi xưa cũng có nguyên do từ nghiệp lực của chúng sinh, cho nên mới có thuyết về chính pháp, tượng pháp, mạt pháp. Ví dụ, chính pháp nói trong kinh Phật là chỉ thời kỳ thánh pháp kiên cố, thời kỳ chính hành kiên cố, thời kỳ viễn lìa kiên cố, thời kỳ pháp nghĩa kiên cố, thời kỳ pháp giáo kiên cố, thời kỳ lợi dưỡng kiên cố, thời kỳ quai tranh kiên cố, thời kỳ sự nghiệp kiên cố, thời kỳ hý luận kiên cố vân vân; cho đến cả việc Phật đã thọ ký: Phật pháp sẽ dịch chuyển về phía Nam, cuối cùng truyền đến Chấn Đan…Cho nên, việc diệt vong “Phật giáo chân chính” của Mật giáo ở Thiên Trúc cũng có một phần là do chúng sinh ở Thiên Trúc khi đó phúc bạc, dẫn đến các loại ngoại duyên khiến “Phật giáo chân chính” ở Thiên Trúc bị diệt vong bởi Mật giáo.

Thứ sáu: Tà kiến “Trung Quán” phái Ứng Thành phá hủy gốc rễ của Phật pháp. Cái hại của tà kiến “Trung Quán” phái Ứng Thành còn vượt xa cả việc phá hoại Phật giáo của pháp tu song thân của Mật giáo, vì thế mà chúng ta không thể đánh đồng ngang nhau sự hủy hoại Phật giáo của hai pháp này. Ở đây là nói tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành đã khiến cho Song thân pháp có thể duy trì được tính chính đáng “Ý thức thường trụ bất hoại” của nó, khiến cho Song thân pháp có thể tiếp tục tồn tại trong Phật giáo Mật tông. Cho nên sự thực phá pháp của Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma, Tông Khách Ba còn vượt xa cả những người hoằng truyền Song thân pháp trong Mật giáo.

“Pháp sư” Ấn Thuận và Đạt Lai Lạt Ma do tin theo tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành, trong mấy chục năm trở lại đây đã cực lực phủ nhận chính pháp Như Lai Tạng. Bọn họ do đã phủ định chính pháp Như Lai Tạng, khi mắt thấy các kinh Đại thừa đều nói về diệu pháp Như Lai Tạng, nhưng bản thân thì không thể chứng được, vì thế đã tiến tới phủ định cả các kinh Đại thừa, nói đó là kinh điển do người đời sau biên tạo, tập kết. Ấn Thuận còn bạo gan hơn đã giả danh khảo chứng, phủ định các kinh Đại thừa, trong các cuốn sách của mình như “Diệu Vân Tập”… chỗ nào cũng ám thị rằng: Kinh Đại thừa là do các đệ tử đời sau sau khi Phật nhập diệt tiến hành sáng tác và kết tập trường kỳ mà thành. Ông ta còn lớn mật xướng ngôn rằng: Chỉ có Phật giáo nhân gian, không có Phật giáo hoằng truyền ở thiên giới, cũng chẳng có thế giới Phật mười phương như thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly…, cũng chẳng có địa ngục để chịu quả báo phỉ báng chính pháp, nói đó đều chỉ là sự bày đặt phương tiện để giáo hóa mà thôi. Trong các cuốn sách của mình, ông ta chỗ nào cũng xướng ngôn rằng: “Phật Thích Ca sau khi nhập diệt, đã như tro bay khói tắt, thực sự không còn Báo thân Phật vẫn còn đang thuyết pháp ở Sắc Cứu Cánh thiên. Đó chỉ là thuyết do đệ tử Phật đời sau vĩnh hằng hoài niệm Phật Thích Ca nên đã sáng tạo ra mà thôi”. Thế mà những trước tác tà thuyết đó của Ấn Thuận ngày nay đã được hơn 90% viện Phật học của hai bờ áp dụng làm giáo trình, sự tệ hại của nó ảnh hưởng cực lớn, cũng cực kỳ sâu xa.

Do những ngôn thuyết trong các trước tác sai lầm tà trái phá hoại chính pháp Như Lai Tạng của Ấn Thuận đã được lưu truyền rộng rãi lâu dài và đã được phổ biến công nhận là Phật pháp chân chính, điều này đã khiến cho học sinh các viện Phật học của Trung Quốc đại lực và một bộ phận các pháp sư xuất gia, vì tin theo các sách của Ấn Thuận nên đã không tin nhân quả, không tin địa ngục một cách rộng rãi. Vì thế mà các học sinh đó sau khi tan học, rời chùa đã ăn thịt, uống rượu cho đến cả chơi gái…Những người như thế vô cùng nhiều. Cũng có một số ít tỳ kheo xuất gia đã cùng phạm tội này, cùng hành những việc này.

Xin hỏi vì sao lại có những hành vi phóng đãng này? Lẽ nào họ không sợ phạm giới và báo ứng nhân quả ở địa ngục ư? Bọn họ mỗi lần nghe đều trả lời rằng: “Theo khảo chứng trong các trước tác của pháp sư Ấn Thuận và theo sự truyền thụ của các giáo sư viện Phật học tin theo sách của Ấn Thuận thì quả thực không có địa ngục, cho nên không có cái gọi là quả báo đời sau để nói”. Phật giáo đại lục ngày nay đã luân lạc đến bước đường này, Phật giáo đại lục trong tương lai sẽ càng khiến người ta càng lo lắng, đó đều là do các tà kiến và khảo chứng pháp nghĩa sai lầm trong các trước tác của Trung Quán phái Ứng Thành được hoằng truyền trong các cuốn sách như “Diệu Vân Tập” của pháp sư Ấn Thuận.

Giới Phật giáo Đài Loan, do nhiều người học Phật giáo và các tín đồ đa phần đều coi trọng giới luật nên đã hình thành một sự ước thúc tự nhiên, vì thế mà có một bộ phận hai chúng xuất gia ở Đài Loan tuy tin vào tà thuyết “không có địa ngục, không có thế giới Cực Lạc, Lưu Ly” và “Phật Thích Ca đã nhập diệt, quả thực không có Báo thân Phật hiện đang thuyết pháp ở Sắc Cứu Cánh thiên” của Ấn Thuận mà trong lòng không tin nhân quả ba đời, nhưng vẫn không dám giương mắt to gan vi phạm giới luật, để tránh bị mất đi sự hộ trì của tín đồ.

Thế nhưng nhiều năm trở lại đây, số lượng pháp sư xuất gia đặt mua tượng khỏa thân song thân giao hợp “Phổ Hiền Vương Như Lai” của Mật giáo ngày càng tăng rõ rệt. Những chuyện này đều là do Ấn Thuận kiên trì bám chấp tà kiến của Trung Quán phái Ứng Thành không chịu thay đổi, tiếp tục lấy trước tác phủ định chính pháp Như Lai Tạng của mình làm nhân, cộng thêm việc Hội Phật giáo Trung Quốc Đài Loan mời Đạt Lai Lạt Ma đến Đài Loan “hoằng pháp” làm trợ duyên, pháp sư Thánh Nghiêm lại thừa cơ bám duyên vào Đạt Lai Lạt Ma, dựa vào đó để nâng cao giá trị bản thân hiện đang có xu hướng suy giảm. Những sự việc đẩy sóng trợ gió đó đã khiến cho những người học tại gia và xuất gia chuyển sang Mật giáo cầu chứng “Phật pháp”. Những sự thực này đã chứng tỏ rõ ràng sự nguy hại sâu xa của tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành đối với Phật giáo, không thể xem nhẹ được.

Việc Phật giáo Thiên Trúc bị diệt bởi tay Mật giáo, nguyên nhân bề ngoài tuy là do pháp tu song thân dâm lạc gây ra, nhưng nguyên nhân gốc rễ bên trong lại là do tà kiến của Trung Quán phái Ứng Thành gây nên. Vì sao vậy? Vì nếu chính pháp Như Lai Tạng được đông đảo đại chúng biết đến, nếu tất cả mọi người học đều biết rằng trí tuệ Bát Nhã được xây dựng, có được là nhờ dựa vào Như Lai Tạng, nếu tất cả người học đều biết điều cốt yếu của thành Phật là ở chỗ tu chứng Nhất thiết Chủng trí của Như Lai Tạng mà nhận định rằng “bắt buộc phải chứng Như Lai Tạng trước thì mới có thể nhập vào Kiến đạo vị của Phật pháp Đại thừa, thì sau khi ngộ mới bắt đầu tu đạo Phật Bồ Đề”, thì họ sẽ hiểu ngay rằng các loại pháp tu của Mật giáo đều không liên quan gì đến Phật pháp cả, thì sẽ không bị Mật giáo làm cho mê hoặc, như vậy thì chính pháp của Phật giáo sẽ có thể được tiếp tục hoằng truyền. Thế nhưng, nay pháp sư Ấn Thuận tự tiếp nhận tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành của Mật giáo, phủ định chính pháp Như Lai Tạng, vu rằng Như Lai Tạng không có thật, nói vọng rằng Như Lai Tạng là thuyết chỉ Đại thừa mới có, trong các kinh Tứ A Hàm không chỗ nào thấy thánh ngôn của Phật nói về Như Lai Tạng, dẫn đến các pháp ngoại đạo tạo ra dựa trên ý thức và sự bày đặt hư vọng của Mật giáo mới có không gian sinh tồn. Tất cả những điều này đều là nguyên nhân chính khiến cho Mật giáo có thể tiếp tục tồn tại và phát triển, cho nên mới nói tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành mới là nguyên nhân thực sự khiến cho Phật giáo Thiên Trúc bị diệt trong tay Mật giáo, còn sự thực về việc quảng truyền Song thân pháp làm diệt vong Phật giáo chân chính chỉ là cái hiện tượng bề ngoài mà thôi.

Các viện Phật học ở Đài Loan và Trung Quốc đại lục ngày nay đại đa số đều đã bị đọa vào trong tà kiến của Trung Quán phái Ứng Thành Mật tông, khiến cho pháp tà dâm của Mật tông có được không gian sinh tồn và phát triển. Phật giáo Thiên Trúc thời xưa cũng hệt vậy, do Trung Quán phái Ứng Thành làm hại, khiến cho các pháp tương ứng với ý thức của Mật giáo mới có đất sinh tồn và phát triển, khiến cho chính pháp Như Lai Tạng mà Phật tuyên thuyết dần dần không còn được tin theo, cuối cùng đoạn diệt thất truyền. Còn khiến Mật giáo dần dần phát triển thêm, cuối cùng thay thế vị trí của Hiển giáo, Phật giáo chính thức cáo chung. Hiện tượng và xu thế phát triển như thế đã bắt đầu xuất hiện ở trong Phật giáo Đài Loan ngày nay, sau này sẽ còn xuất hiện ồ ạt nghiêm trọng hơn trong giới Phật giáo Trung Quốc đại lục. Nếu như không tăng cường biện chính triệt để, thì lịch sử Phật giáo Thiên Trúc bị diệt vong sẽ tái diễn một lần nữa ở hai bờ Trung Quốc Đài Loan, thì không lâu sau, vì duyên cớ đó mà sự phát triển trong tương lai của Phật giáo sẽ càng khiến người ta lo lắng không yên.

Việc mà giáo sư Giang Xán Đằng đang sốt ruột ngày nay là đi sang Trung Quốc đại lục để nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng tiêu cực của các trước tác của Ấn Thuận đối với giới Phật giáo đại lục, mới là bổn phận của “học giả nghiên cứu học thuật Phật giáo”, mới không làm trái với lương tri của “nhà nghiên cứu học thuật Phật giáo”, chứ không nên như con đà điều rúc đầu vào trong cát, né tránh sự thực, tiếp tục biện hộ cho tà kiến của Ấn Thuận, không chịu đi đại lục tìm hiểu, nghiên cứu và công bố rộng rãi, ngồi giương mắt ếch nhìn tà kiến trước tác của Ấn Thuận tiếp tục phá hoại chính pháp Như Lai Tạng gốc rễ của Phật giáo, ngồi xem tà kiến của Ấn Thuận tiếp tục đầu độc tâm linh những người học trong các viện Phật giáo của Đài Loan và Trung Quốc.

Thứ bảy: Số lượng người chứng ngộ Bát Nhã trong Hiển giáo xưa nay quá ít, lực lượng mỏng manh. Từ xưa đến nay, người chứng ngộ trong Hiển giáo cực ít, điều này khiến cho sức mạnh của Hiển giáo không đủ để chống chọi với Mật tông tà kiến. Hoặc tuy có người chứng đạo, nhưng vì vẫn chưa thâm nhập được vào Chủng trí, chưa phát khởi trí tuệ thâm diệu, dẫn đến bị rơi vào tâm thái ba phải xuề xòa, cho nên không dám đắc tội với các đại sư Mật tông sai lầm đương thời mà mình đã có quan hệ qua lại, vì thế mà không nguyện phá tà hiển chính, khiến cho Mật giáo càng tiếp tục lớn mạnh. Những tâm hành như thế, được gọi là ba phải xuề xòa.

Nguyên nhân không thể phá tà hiển chính có hai: Một là chưa đắc Đạo chủng trí, không đủ sức thực hiện. Hai là do tình thế bức bách, không thể thành công, như ngài Đa La Na Tha của phái Giác Nãng Ba khi còn ở Mật tông Tây Tạng, tuy có hoằng truyền chính pháp Như Lai Tạng, bên trong ngầm bác bỏ ngoại đạo pháp tà dâm song thân của Mật tông Tây Tạng, muốn thay đổi tà pháp Mật tông từ đất gốc Tạng Mật, nhưng vì bị thế lực chính trị của Hoàng giáo bức hại mà cách mạng không thành.

Pháp nghĩa của Mật giáo hoàn toàn tà trái hoang đường, người nào hoằng truyền theo pháp đó tất có đại bệnh, khiến cho bệnh tật ô nhiễm liên miên không ngớt. Trịnh Liên Sinh, người của Mật giáo ngày nay từng nói rằng: “Ở thời kỳ mạt pháp, các thượng sư có giới đức không thanh tịnh rất nhiều, thường dựa vào quán tưởng song thân của pháp tương ứng thượng sư, dần dần dẫn đến kết luận về lừa dâm… Hiện nay ở đất Đài Loan, nhân sĩ học Mật tông Tây Tạng rất nhiều, có một bộ phận nhân sĩ học Mật đặc biệt hứng thú với Song thân pháp vô thượng yoga, cho rằng pháp này có thể đạt đến dục lạc nam nữ, lại có thể tức thân thành Phật ngay tại đời này, quả thật là thù thắng. Ví dụ như có một loạt trước tác của cư sĩ nọ (có lẽ là chỉ Trần Kiện Dân) không ngừng đề xướng rằng: ‘Chỉ có Song thân pháp mới có thể thành Phật ở đời này đất này, không cần đợi đợi sau. Các Phật pháp khác thì không thể nào thành Phật trong một đời’. Kết quả là có một số nhân sĩ học Mật mượn gió bẻ măng, đem hết dã tâm ra để lừa tình các phụ nữ sơ cơ học Mật tông, khiến cả hai đều rơi vào nhân quả, phá hoại tông phong giới luật thanh tịnh của Phật giáo. Lại có một số thượng sư xuyên tạc nội nghĩa của “Sự sư pháp ngũ thập tụng”, mượn cớ là thượng sư ngang bằng với Phật để yêu cầu nữ đệ tử lấy thân cúng dường. Các nhân sĩ Mật tông sơ cơ thông thường vì tò mò mà mắc lừa, dẫn đến bi kịch luân lý của bao nhiêu gia đình, thật là đáng thương đáng thán” (62-348, 62-347).

Trịnh Liên Sinh bản thân tuy nói ra những lời này, nhưng ông ta lại không biết gì về sự tà trái, hoang đường của Mật giáo, vì thế mà chủ trương rằng: “Song thân pháp của Mật tông không phải tất cả mọi người ai ai cũng có thể tu, mà hai bên nam nữ phải thành tựu về ngộ tính kiến địa và khí mạch, đạt đến một tiêu chuẩn nhất định, được thượng sư chấp nhận, thì mới có thể tu trì” (62-347). Đó chính là ví dụ về người không biết gì về sự tà trái hoang đường của pháp nghĩa Mật giáo vậy.

Người trong Mật giáo đã không biết rằng Song thân pháp hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp như thế, còn người trong Hiển giáo tuy đã chứng ngộ, nhưng vì Mật giáo hoàn toàn giữ bí mật về pháp nghĩa tự tông, khiến cho người ngoài không thể biết được uẩn khúc bên trong, vì vậy mà e ngại phạm nhầm trọng tội phỉ báng chính pháp nên đã không dám bình luận họ. Lại vì trong Hiển giáo, số người chứng ngộ Thực Tướng Bát Nhã xưa nay cực ít, không thể hình thành lực lượng chế ngự, đại đa số đều không dám chính thức phê phán pháp nghĩa của Mật giáo, khiến cho Mật giáo càng được thể hoằng truyền rộng rãi, thay đổi chính pháp Phật giáo trong sự bất tri bất giác của chúng nhân, dẫn đến tằm ăn kình nuốt tài nguyên của Hiển giáo, thậm chí là hoàn toàn thay thế Hiển giáo mà trở thành đại diện “chính thống” của Phật giáo. Vì thế mà họ đã tiêu diệt Phật giáo trong sự vô tri vô giác của đai chúng.

Những người chứng ngộ Phật giáo ngày nay cũng giống khi xưa, rơi vào tình thế thiểu số sức yếu, nhưng vì các điển tịch Mật giáo ngày nay đã dễ dàng có được hơn thời xưa, qua đó có thể biết được nội hàm pháp nghĩa của Mật giáo. Lại vì tôi đời xưa đã phụng mệnh Phật, từng xuất gia ở phái Giác Nãng Ba của Tạng Mật, hai đời nhậm chức Pháp vương, kỳ vọng thay đổi Mật giáo từ gốc rễ ngay trong nội bộ Mật giáo, cho nên đã lấy pháp môn Thời Luân Kim Cương yểm hộ bên ngoài, mật truyền pháp Như Lai Tạng, sau nhiều đời mới bắt đầu công khai hoằng truyền pháp này. Khi đó, vì hoàng đế Trung Quốc đã thu phục nhân tố chính trị ngoại phiên, tầng lớp quý tộc do bám duyên vào hoàng đế, đa phần đã sùng tín pháp nghĩa của Mật giáo, không còn tin theo Hiển giáo, có lúc thậm chí còn thi hành biện pháp hạn chế nữa. Cho nên, trong nội địa Trung Quốc đã khó mà hoằng dương pháp Hiển giáo được nữa, chỉ có thể thay đổi pháp Mật giáo từ gốc rễ ngay trong căn cứ địa của Mật giáo ở Tây Tạng, có thể tạo nên một đường sinh cơ huệ mệnh Phật pháp cho chúng sinh, vì thế mà tôi phụng mệnh Phật vãng sinh đến đất Tạng, mượn cớ hoằng truyền pháp Như Lai Tạng để phá Song thân pháp của Mật tông và tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành.

Chính vì thế mà đời này, tôi tuy hoàn toàn không từng tu học pháp của Mật giáo, không từng nghiên cứu đọc sách của Mật giáo, nhưng sau khi đọc cuốn sách “Nguồn gốc tông phái” của Thổ Quan, ngay đêm đó đã nằm mơ “đời xưa khi từng nhậm chức Pháp vương của phái Giác Nãng Ba, bổn phái đã từng 6 lần giành thắng lợi trong cuộc biện chính pháp nghĩa với phái Tát Già và phái Đạt Bố Cát Cử, cứ sau mỗi lần giành thắng lợi là lập tức bị hỗn chiến đánh giết trên đất Nê Ninh, sau cùng bị trục xuất ra khỏi đất Tây Tạng”. Sau đợt đó, trong định hoặc trong mơ, tôi thường nhìn thấy những hình ảnh phấn đấu vì chính pháp hai đời trước kia trong Mật giáo. Sau đó, cũng vì đọc được những cuốn sách Mật tục của họ, bèn dần dần nhớ lại những tri thức đã từng học trong đất Mật giáo năm xưa, dần dần nhớ lại một số mật nghĩa nói trong các Mật tục. Chính vì thế mà tôi nay đem những hồi ức này và những số liệu có sẵn trong tay, tiến hành tổng hợp lại các pháp của Mật giáo, thực hiện biện chính đối với những ngôn thuyết ẩn dụ trong pháp nghĩa của Mật giáo.

Mục đích của những việc làm này vẫn là nhằm tránh để câu chuyện Phật giáo ở Thiên Trúc khi xưa bị tiêu diệt bởi tay Mật giáo lại tiếp tục tái diễn ở Trung Quốc ngày nay. Phàm là các đệ tử chính pháp Phật giáo chúng ta, thông qua những ví dụ thực tế nêu ra trong cuốn sách “Cuồng Mật và Chân Mật” này, và những giải thích xác thực của tôi đối với mật nghĩa của họ, nên có những hiểu biết đúng đắn về bản chất của Mật giáo, từ đó mà biết tránh xa các tri kiến và hành môn tà trái hoang đường của Mật giáo, chuyển sang nương dựa vào Phật chỉ trong các kinh Hiển giáo, tu chứng lấy Thức thứ tám Như Lai Tạng vốn có của mỗi người, để sau đó có thể nhập vào Hiền thánh vị trong Hiển giáo, kế thừa và phát dương các tri kiến đúng đắn trong Phật pháp Tam thừa của Thích Tôn, khiến đông đảo chúng sinh hữu duyên đều được chứng nhập, để tránh lại bị Mật giáo dẫn dắt sai lầm, thậm chí dẫn đến tạo ra tội địa ngục phạm phải trọng giới và phá hoại chính pháp Phật giáo, như thế mới là cái phúc may của Phật giáo, mới là cái phúc may của chúng sinh!

 

 


Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 0