Chân tướng
Mật Tông Tây Tạng

Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.

Tiết 11: Phải tẩn xuất song thân pháp của Mật tông ra ngoài Phật giáo

Từ việc biện chính về “lý, giáo” ở trên, có thể thấy pháp tức thân thành Phật Song thân pháp của Mật tông tuyệt đối không phải là Phật pháp, tất cả mọi Phật đệ tử bi trí tăng thượng đều phải nên tìm cách tẩn xuất pháp tu song thân nam nữ này ra khỏi Phật môn, và thuyết minh rộng rãi cho người học biết, để tất cả những người tu học biết: Pháp nghĩa của Mật tông kỳ thực căn bản là ngoại đạo pháp tà trái. Tuyên truyền rộng rãi như thế thì mới khiến cho người học cảnh giác, không còn dẫm phải vết xe đổ mất tài thất thân, lại phá giới, phá hoại chính pháp của những người học đi trước nữa.

Tạng Kinh của Mật tông chép lại cuốn kinh Tiểu thừa “Thị thất giao hội kinh” cũng nói rằng: “…Thế Tôn trong kinh Tiểu thừa có tên là “Thị thất giao hội kinh” nói: “Này Phạm Chí! Ở đây có một người nào đó tự xưng: ‘Tôi tu phạm hạnh thanh tịnh, lại chưa từng song song giao hợp với phụ nữ’, nhưng khi anh ta nhìn thấy ngọc thể của phụ nữ, lại quyến luyến trang phục trên thân người phụ nữ, cùng vui đùa với phụ nữ, yêu thích những tiếng cười vui của người phụ nữ, yêu thích làm việc gần phụ nữ, yêu thích những vật trang sức và cả ca múa, âm nhạc của phụ nữ cách tường, nhìn thấy người ta hưởng thụ cái vui ngũ dục thì tâm lĩnh thần hội. Những thứ đó đều không thanh tịnh. Nhìn lại về Phạm thiên ở các tầng trời, cũng không thanh tịnh giống như vậy”. Cuốn “Đại thừa thất pháp kinh” cũng nói: ‘Nếu như tăng cường tham dục bằng vọng tưởng, việc đó còn không nên làm, vậy thì việc giao hợp bằng nhị căn càng không phải nói nữa’”. (6-147)

Các thày Mật tông xưa nay biết rõ Phật rất nhiều lần bài bác sự tham dục, nhưng lại liên tục nói màu mè rằng: “có thể đoạn tham dục trong tham dục”, nói phương pháp lấy dục chặn dục đó mới là Phật pháp cứu cánh, rồi vu rằng Phật đã từng thuyết pháp này. Thế nhưng những người học Phật sơ cơ thường không biết cái sai lầm của họ, cho rằng đúng là Phật từng thuyết pháp như vậy, sau khi chạy theo gót các thượng sư Mật tông, dần dần thâm nhập vào “tu học Phật pháp” trong Mật giáo, không biết những gì mình học, mình tu, mình chứng đều là pháp luân hồi Dục giới của ngoại đạo, khiến cho người ta không thể không cảm thán chua xót cho họ: thời Mạt pháp tu học Phật đạo thật khó, luôn bị mê hoặc bởi tà kiến của các danh sư, cực khó quay đầu.

Vì pháp tu song thân khiến cho những người học Mật phá giới hủy luật, không nên tu học mới phải. Những người tu học Mật pháp, mục tiêu thành tựu cuối cùng chính là đệ tứ hỷ trong dâm lạc và cầu mong trụ mãi trong cái lạc thụ đó mà không thoái thất. Trụ ở trong đại lạc đệ tứ hỷ như thế và nhận định cái Tâm giác tri trong đó là tâm Không tính, cho rằng thế là thành tựu Phật đạo cứu cánh. Thế nhưng pháp này chắc chắn sẽ dẫn đến thành tựu tội tà dâm, là một trong mười đại trọng tội không chấp nhận sám hối.

Tội như thế, ngay cả người tại gia còn không nên phạm, huống hồ là những người xuất gia như Tông Khách Ba, lại còn dạy các thượng sư Mật tông nên hợp tu với đệ tử khác giới? lại thực hiện quán đỉnh thứ ba, đến trước tượng Phật trong đàn quán đỉnh, hợp tu Song thân pháp với Minh Phi, cầu đạt cực khoái tình dục để lậu Minh điểm (xuất tinh dịch) vào trong hạ thể của Minh Phi, đem trộn với dâm dịch của Minh Phi, sau đó đem thứ Cam lộ làm bằng dâm dịch hỗn hợp đó để quán đỉnh cho đệ tử? rồi bắt đệ tử nếm nuốt thứ dâm dịch đó, để dẫn sinh ra dâm lạc? Thật không thể hoang đường hơn!

Đó là giới tà dâm nằm trong mười giới nặng mà tất cả hành giả Mật tông đều không nên phạm phải, nhưng thực tế các hành giả và Lạt Ma của Mật tông, thân là người đã xuất gia mà sao có thể mê mẩn không mệt? Lẽ nào không sợ khổ báo địa ngục trong vô lượng kiếp sau khi đã phạm giới hay sao?

Hành giả Mật tông cho rằng Lạt Ma xuất gia có thể cùng người nữ giao hợp, chỉ cần Minh điểm không lậu rớt (không xuất tinh), thì coi như không phạm giới. Vì tà kiến này, tất cả những người xuất gia, tại gia của Mật tông đều không sợ phạm giới tà dâm: “Kinh đã nói rằng: ‘Muốn sinh chứng Bồ Đề ở đây, thì một giọt Minh điểm cũng không được (làm) hoại’. Thế nhưng ta lại nghe rằng: Người có thể nhiếp trì trí (tuệ) vô nhị, thì dù có hoại cũng không ngại. Mật kinh cũng chép lại các phương tiện thiện xảo, khiến cho người (không may bị) hoại không bị đọa, hơn nữa vẫn có thể siêu thoát khỏi Tam giới. Người xuất gia đó không hoại Minh điểm, sao không cho phép dựa (vào Minh Phi mà tu Song thân pháp chứ)? Mà ta không (làm được) như thế thì cũng bất an đấy… Nay Minh điểm không tiết xuất, giới tất không phạm, trí tuệ triển chuyển tăng thượng, A xà lê nên vui lòng vì điều này, sao còn lừa dối?... Thày truyền thừa còn đem khẩu quyết của Tham đạo ra khai thị, truyền cho kinh luận bí mật, đại ý là: ‘Dùng trí nhiếp trì, có trí sở y (làm chỗ dựa) thì Minh điểm dù có hoại (dù có xuất tinh) thì cũng không phạm “cấm hành giới”. Minh điểm không lậu rớt, duy chỉ là trước khi sinh ra trí tuệ, phải dựa vào đó để tăng trưởng thôi’…Giữa chừng cũng nghi ngờ như thế liệu có phạm giới tỳ kheo, nhưng chỉ uống cốc trà trong chốc lát, tức thì không còn suy nghĩ về nó nữa, thời muốn ca hát, thời muốn chơi đùa người nữ, thời muốn đến nơi xa lạ cũng đều thỏa nguyện tùy ý”. (34-607~609)

Như vậy, Mật kinh do các thượng sư Mật tông tự tạo ra đã chủ trương: Nếu như Lạt Ma xuất gia của Mật tông là người đã có được trí tuệ Không tính kiến, đã có công phu mạch khí, Minh điểm, tuy đích thân hợp tu pháp dâm lạc song thân với người khác giới, chỉ cần Minh điểm (tinh dịch) có thể không xuất tiết, thì vẫn là người không phạm giới cấm của Mật tông. Còn nếu như khi hợp tu Song thân pháp với người khác giới, không cẩn thận để xuất tiết Minh điểm, nhưng nếu là người có thể hành dâm lạc bằng “trí tuệ Lạc Không bất nhị” thì cũng không bị coi là phạm giới.

Lại nữa, Mật tông cho rằng: Coi pháp tu như vậy là đạo thành Phật cứu cánh, cho nên những người thường hợp tu Song thân pháp với người khác giới gọi là người tu hành tinh tấn, không nên vì chuyện có lúc xuất tiết tinh dịch mà nói là phạm giới. Vì duyên cớ đó, rất nhiều nhà tu hành lâu năm của Mật tông bèn cho rằng người có đầy đủ trí tuệ Lạc Không bất nhị, tuy có lúc lậu rớt Minh điểm, cũng không phải là phạm giới. Cho nên, người trong Mật tông cho rằng pháp tu như vậy mới là chính tu hành của Phật pháp, nó khác với sự hành dâm thông thường của người thế tục.

Nếu suy xét lý luận và thực tế của pháp tu song thân, thì người xuất gia trong Mật tông đang tham cầu pháp tại gia: Một là, có nhiều thượng sư chưa tu được công phu nâng hạ Minh điểm, nhưng vì tham mỹ sắc của người khác nên vẫn hợp tu Song thân pháp với người ta. Hai là, tuy có được công phu nâng hạ Minh điểm mà không xuất tiết như thế, nhưng lại vẫn phải tuân theo giáo pháp Mật tông để truy cầu đệ tứ hỷ - cảm giác sung sướng nhất của dâm lạc thế gian, tuy có “Không tính kiến” hỗ trợ, nhưng Không tính kiến của anh ta lại đọa vào tầng thứ Tâm ý thức của thường kiến ngoại đạo. Bản chất của nó vẫn là pháp tham cầu dục lạc (khoái lạc dâm dục), hoàn toàn không liên quan gì đến Phật Bồ Đề. Từ đạo lý đó, mới nói Song thân pháp của Mật tông chỉ là người xuất gia tham pháp tại gia, thực sự phi Phật pháp.

Lại còn có chuyện dụ dỗ người nữ bằng câu chú và thuốc nữa, khiến cho người nữ trúng ý anh ta sinh khởi dâm ý (bị kích thích dục vọng) mà hợp tu với anh ta: “Họ có rất nhiều câu chú, bài thuốc, có thể dẫn dụ Không Hành (mẫu), tôi đều rất không tán đồng. Chỉ có Không Lạc thực sự tu đúng như pháp, thì Không Hành Mẫu thực sự tự cũng sẽ dẫn thân tới. Không Hành Mẫu thực sự đến rồi, Không Lạc thực sự đắc rồi, thì sẽ có điều kiện khai mở Trung mạch thực sự, cho nên không được làm bừa”. (32-398)

Qua câu trần thuật đó, đã có thể thấy rằng giữa các thượng sư Lạt Ma của Mật tông, có không ít người từng sử dụng thuật chú hoặc xuân dược (thuốc kích dục) để dụ dỗ người nữ vừa ý hành dâm với mình. Cho dù là người thực sự có thể tu đạt công phu như pháp theo thứ tự của Mật giáo, mà sau đó ngự nữ (cưỡi lên người nữ mà hành lạc) thì về bản chất vẫn là pháp tham cầu khoái lạc tình dục, vì họ muốn truy cầu đệ tứ hỷ, mà đệ tứ hỷ chính là cảm giác dâm lạc cao nhất ở Dục giới. Cái Không tính chứng được từ pháp dâm lạc đó, hoàn toàn không liên quan gì đến Không tính mà Phật thuyết. Cái Lạc chứng được từ pháp dâm lạc đó cũng khác xa so với cái “Lạc của Niết Bàn Bồ Đề” mà Phật tuyên thuyết. Cho nên mới nói pháp dâm lạc hợp tu song thân của Mật tông, kỳ thực là người xuất gia tham cầu dâm lạc của người tại gia, là người xuất gia tham pháp tại gia.

Còn đại Bồ Tát của Hiển tông thì là người tại gia hành pháp xuất gia, tôn giả Bà Tu Mật Đa trong “kinh Hoa Nghiêm” chính là người như vậy. Trong “kinh Hoa Nghiêm” chép rằng: Có chúng sinh tuy vì tham trước mỹ sắc mà đến gặp Bà Tu Mật Đa, nhưng có người vừa gặp là ngộ, có người thấy (nữ tôn giả) cười là ngộ, có người dắt tay là ngộ, có người hôn môi mà ngộ, có người ôm lấy thân là ngộ…thậm chí có người còn phải cùng vị ấy triền miên qua đêm mới ngộ được. Những người như thế, người mà vừa gặp đã ngộ là người có chứng cảnh rất cao, huệ lực rất mạnh; người mà thấy cười rồi mới ngộ thì thấp hơn người kia một bậc… cho đến những người hôn môi, cùng giường qua đêm rồi mới ngộ, tuy là người chứng ngộ, những chỉ có thể tự độ, chứng lượng rất thấp, chỉ có thể ngộ nhập trụ ở Thất trụ vị thôi.

Thế nhưng, pháp mà tôn giả Bà Tu Mật Đa khiến cho người ta chứng ngộ, không phải là pháp hợp tu song thân của Mật tông, không phải là khiến người ta coi Tâm giác tri vô niệm trong cảnh giới dâm lạc là Không tính, mà coi việc chứng được Thức thứ tám Thực tướng tâm là Không tính, khác xa với Mật tông, không thể đánh đồng một lứa được.

Pháp tu song thân của Mật tông, từ đầu chí cuối vẫn phải thực hiện nam nữ nhị căn tương hợp (quan hệ tình dục), mục tiêu của tu hành và chứng thực vẫn là cảm thụ đệ tứ hỷ của dâm lạc, còn cái “Không tính” ngộ được chỉ là sự không vô hình sắc (vô hình vô sắc) của Tâm giác tri và cảm xúc dâm lạc. Như thế mà nói rằng “Lạc Không bất nhị”, kỳ thực vẫn đọa vào trong “thường kiến” của ngoại đạo, thậm chí còn không bằng ngoại đạo tự tu thanh tịnh nữa, vì những người thường kiến ngoại đạo còn biết tu hành thanh tịnh phải tránh xa nữ sắc.

Vì duyên cớ đó, Mật tông bám duyên vào điển cố về Bà Tu Mật Đa trong “kinh Hoa Nghiêm”, chủ trương pháp của họ có thể khiến cho người ta chứng được Giải thoát cho đến Phật Bồ Đề, kỳ thực chỉ là những lời nói hư vọng mà thôi, bởi pháp của họ khác xa so với pháp của Bà Tu Mật Đa. Song thân pháp của Mật tông như thế không phải là Phật pháp, thì (chúng ta) phải trục xuất tà pháp đó ra khỏi Phật giáo, không để cho chúng đệ tử trong Phật môn tu học để tránh cho rất nhiều người học khác vì không biết nên đâm đầu vào tu, phạm phải Thập trọng giới mà đọa xuống địa ngục.

Phật trụ ở thế gian để dẫn dắt tứ chúng, cho nên buộc phải thị hiện tướng xuất gia, thân hành thanh tịnh cứu cánh, lìa xa các hành thế gian. Thế nhưng, Phật là người Nhất thiết trí, không phải là vì không biết (pháp) tà kiến của Mật tông nên không thể tu theo, mà đã phá tà kiến này ngay trong “kinh Lăng Già” rồi, thậm chí ngay từ đầu trong Tứ A Hàm đã nói tà dâm là pháp luân hồi dục giới rồi; đồng thời Phật còn tuyên thuyết pháp giao hợp nhị căn nam nữ là cảnh giới thấp nhất trong Dục giới, không thể nào vượt quá được tầng Đao Lợi thiên. Đã biết Tham đạo chắc chắn sẽ khiến chúng sinh luân hồi sinh tử trong Dục giới, thì sau khi Ứng Thân nhập diệt, sao có thể lại thị hiện “Kim Cương Trì Phật” để nói về pháp hữu lậu hữu vi có thể khiến chúng sinh luân lạc vào tầng thứ thấp nhất trong Dục giới chứ? Không thể có cái lý ấy! Cho nên, Mật kinh nói pháp hợp tu song thân tức thân thành Phật, bảo đó là pháp do Phật nói, tuyệt đối không phải là lời nói thật, tuyệt đối không phải là Phật pháp, nó chỉ là pháp do các thượng sư Mật tông lấy từ ngoại đạo, giả mạo danh nghĩa Thế Tôn để sáng tác ra các Tục kinh Tục điển mà thôi, không đáng để dạy.

Pháp như thế có bản chất là tà dâm, trong Mật tông thời xưa và thời nay, vốn đã có người thấy được tà kiến này, nên đã phá nó: “Tổ sư Hoàng giáo Tông Khách Ba vì muốn trừ bỏ những thói quen uế loạn của Mật giáo đương thời, tuy có đủ điều kiện của pháp song tu, nhưng chưa từng áp dụng pháp tu này, giới hạnh tinh nghiêm, trở thành điển phạm mẫu mực một đời (Bình Thực chú: Những lời này không đúng sự thật. Theo như chứng cứ trong tập 2, tập 3 thì Tông Khách Ba cũng chủ trương người xuất gia muốn thành Phật đạo thì cũng phải tu pháp này, thậm chí còn phải tu hành tinh tấn mỗi ngày 8 thời (16 tiếng), chỉ là đưa ra điều kiện rất nghiêm ngặt mà thôi). Khi ông ấy luận bàn về tu Song thân pháp, đã kiến nghị dùng tượng Phật nam tính và tượng Phật nữ tính, xem hình tướng để thay thế, nhằm tịnh hóa các loại căn chấp kiết sử của nhân tính, cũng để phá trừ dục chấp của hai giới nam nữ, đặc biệt khi chuyển sinh ở (giai đoạn) Trung âm thân thì có thể tránh bị mê hoặc mà đọa vào trong Lục đạo. Ngoài ra, Pháp vương phái Ninh Mã thời cận đại Long Khâm Ba cũng cho rằng Song thân pháp giao cấu nhục thể không phải là pháp tu hành thích hợp với người bình thường, ông nói: ‘Vì nhân duyên quán đỉnh trí tuệ thứ ba mà giáng hạ Minh điểm vân vân, anh cho rằng có thể giúp chúng ta tu hành từ thân thể cô ta (anh ta), nhưng cái đạo hữu lậu này đã lừa dối biết bao nhiêu nhà đại tu hành. Nương dựa vào đạo Giải thoát là điều mà tôi khẩn thiết khuyến cáo’”. (62-349)

Long Khâm Ba nói ra những lời khẩn khoản như vậy, đáng tiếc là những người trong Mật tông nhìn mà không thấy những lời lẽ này, tiếp tục tự xưng hơn hẳn Hiển giáo bằng pháp tu song thân, miệt thị rằng Hiển giáo không có pháp này, cho nên thường hạ nhục Hiển giáo chỉ là tu hành ở Nhân địa, dùng để xiển dương Mật tông, nói rằng hành môn của Mật tông là tu hành ở Quả địa. Thế nhưng, pháp hợp tu song thân đó của Mật tông, cho dù có người nào đó tu hết một đời, ngày đêm tinh tấn tu tập, có thể ôm người nữ mãi trong mấy chục năm, nhị căn mãi mãi không lìa, thường trụ trong dâm lạc đệ tứ hỷ, thì cái “Không tính kiến” anh ta chứng được vẫn tuyệt duyên với Kiến đạo Không tính kiến của Tam thừa Bồ Đề, đều không thể chứng được bất kỳ Kiến đạo nào của Tam thừa Bồ Đề. Đâu chỉ là không thể đoạn được Tư hoặc, mà thậm chí đoạn Kiến hoặc trong Kiến đạo cũng không đoạn nổi. Cho nên, các thày Mật tông nói có chứng trí đoạn hoặc, đều là nói suông, không thể lừa người được. Những người tu Mật pháp như thế, lẽ ra phải biết xấu hổ im miệng, xấu hổ khi gặp người mới đúng, chứ có gì đáng cao mạn đâu? Thế nhưng họ lại tự kiêu, sùng Mật ức Hiển, điên đảo đến cùng cực.

Giữa những người tu hành lâu năm của Mật tông có lời đồn rằng: Một thượng sư vô cùng danh tiếng XXX (tạm ẩn tên họ), lúc xả báo, hạ thể của ông ta nhất trụ kình thiên (dương vật dựng đứng), khiến cho những người có mặt dở khóc dở cười. Người mất hết luật nghi Phật tử như thế, đến khi xả báo ông ta còn quán tu Song thân pháp vô thượng Yoga, đó là do tà kiến muốn chứng “Không Lạc cứu cánh của đệ tứ hỷ để thủ chứng Báo thân Phật quả” ở Phật địa gây ra. Đó là một thứ tà kiến, không thể chấp nhận được, thế mà còn mất hết luật nghi Phật tử lúc lâm chung. Tất cả mọi Phật tử phải tránh xa thứ tà kiến này, đừng để bị nó mê hoặc, đi nhầm đường tối.

Ngoài ra, giáo phái chủ yếu của Đông Mật cũng bài xích pháp tu song thân, nên đã sinh ra xung đột về mặt tri kiến với Mật tông Tây Tạng, cho nên Thượng sư Trần Kiện Dân đã nói thế này: “Có một số Đạo sư của Chân Ngôn tông và một số người viết sách đã từng nói: Du già (yoga) tối cao của Mật thừa Tây Tạng không phải là giáo pháp của Phật Đà. Cũng có người cho rằng đại sĩ Liên Hoa Sinh không phải là tín đồ Phật giáo thực sự mà chỉ là một tín đồ Bà La Môn mà thôi! (Chú thích gốc: Thậm chí một số học giả lớn của phái Cách Lỗ Ba cũng nhận định như vậy). Một số vị Thái Đẩu (ngôi sao hàng đầu) của Phật giáo Nhật Bản bài xích pháp tu quán đỉnh thứ tư (Chú thích gốc: của Mật thừa Tây Tạng), nguyên nhân là nó (không?) có pháp bí mật quán đỉnh thứ ba, họ cho rằng đó là pháp tu rất tồi, rất không đạo đức”. (37-163)

Trong Mật tông ở Đài Loan hiện nay, cũng có người không tán thành “người học thông thường tu học Song thân pháp” như thượng sư Trịnh Liên Sinh tán thành tu học Song thân pháp có điều kiện. Dù là thời xưa hay thời nay, ở mảnh đất khai sinh ra Song thân pháp – trong Bà La Môn giáo ở Ấn Độ, cũng luôn có người phản đối Song thân pháp như vậy, cho rằng như thế có hại cho phong tục văn hóa, hơn nữa còn là tà kiến trái ngược với đạo Giải Thoát. Vì thế mà bản thân Song thân pháp, từ cổ chí kim đều luôn có tranh luận. Nếu như vị thượng sư Mật tông xả thọ kia có được tri kiến như thượng sư Trịnh Liên Sinh thì cũng không dẫn đến việc mất hết nghi luật như vậy. Mật tông nếu tiến thêm một bước nữa, phá trừ tuyệt đối Song thân pháp, không chấp nhận “tu học Song thân pháp có điều kiện”, để có thể thực sự tránh xa được tà kiến của Song thân pháp thì Mật tông sẽ dần dần có thể quay về chính pháp của Phật giáo, thì đó là cái phúc lớn của người học Phật giáo từ nay về sau.

Thượng sư Trịnh Liên Sinh nói: “…bởi cái gốc của việc “con người sở dĩ làm người” là ở dâm dục, cho nên không thể giải thoát từ trong dâm dục, không thể thấy Chân tính. Qua đó có thể thấy Nghĩa đế chân thực của pháp tu song thân (quán tưởng), sao lại có cái lý đoạn dâm mà (lại tiếp tục) hành dâm? Cuối cùng, trích dẫn “Minh hối” trong “kinh Lăng Nghiêm” quyển 6 để thay cho lời kết của bài viết này: ‘Các ngươi tu Tam muội, vốn có thể ra khỏi Tam giới. Nếu như dâm tâm không trừ bỏ thì không thể thoát khỏi Tam giới. Dù có trí tuệ cao, có thiền định hiện tiền, nhưng nếu không đoạn trừ dâm tâm thì tất sẽ rơi vào ngạ quỷ đạo: Thượng phẩm thì làm Ma vương, trung phẩm thì làm ma dân, hạ phẩm thì làm ma nữ. Những loại ma quỷ này cũng đều có tín đồ đi theo, ai nấy tự xưng là thành đạo Vô thượng. Sau khi ta diệt độ, thời mạt pháp sẽ có nhiều loại ma dân này, thịnh hành khắp thế gian, quảng hành tham dâm, tự xưng là thiện tri thức, khiến cho chúng sinh rơi vào hố tà kiến tham ái, mất đi con đường tu Bồ Đề. Ngươi dạy thế nhân tu Tam ma địa, trước hết phải đoạn tâm dâm, đó là lời dạy thanh tịnh quyết định (chắc chắn) đầu tiên của Phật Thế Tôn Như Lai các đời trước. Cho nên, này A Nan! Người nếu không đoạn dâm tu thiền định, sẽ như nấu đá cát mà muốn thành cơm, trải qua trăm ngàn kiếp vẫn chỉ là cát nóng. Vì sao vậy? Vì đó không phải là gốc của cơm, chỉ là đá cát mà thôi. Ngươi cầu diệu quả Phật bằng thân dâm, cho dù có được diệu ngộ, vẫn là cái gốc của dâm. Có gốc thành dâm, luân chuyển tam đồ, tất không thể ra thì Niết Bàn Như Lai tu chứng bằng đường nào? Tất phải đoạn cả dâm cơ trên thân tâm, đoạn tính cũng không còn, thì mới có hy vọng ở Phật Bồ Đề. Nói như ta nói gọi là Phật nói, không giống như ta nói là ma Ba tuần nói’”. (62-349~350)

Tất cả các hành giả Mật tông đều nên kính cẩn ghi nhớ lời dạy đó của Thượng sư Trịnh Liên Sinh, đều phải cẩn ghi lời Phật dạy trong “kinh Lăng Nghiêm” đã trích dẫn đó, nhanh chóng tránh xa Song thân pháp, đừng để bị tà kiến của Mật tông mê hoặc nữa.

Lại nữa, người tu pháp tức thân thành Phật này, vì phải theo đuổi lạc xúc cao nhất, muốn thành “Phật cứu cánh”, nên bắt buộc phải cầu chứng đệ tứ hỷ. Thế nhưng, vì truy cầu lạc xúc tối cao đó, nên thường xuyên có người xuất tinh không ngừng mà táng thân mất mạng: “Người phụ nữ cắm kim thoa (cái thoa bằng vàng) trên đầu, không phải là trang điểm quá đà, mà là đề phòng khi cuồng phu xuất tinh không ngớt, thì chọc vào (huyệt) Hội Âm mới không mất mạng. (Chú thích gốc: Mấy người bạn xấu số là Trương Bá Liệt ở Bắc Bình, Phó Chân Ngô ở Thành Đô đều chết trên bụng phụ nữ. Những chuyện thế này, nên dạy cho phụ nữ trung niên. Nếu giữ bí mật mà không nói ra, thì có ích lợi gì đâu!)”. (34-310) Những người muốn cầu “thành Phật” ở Mật tông, lạc cực sinh bi, việc có ghi chép như vậy, thì việc chưa ghi chép chắc hẳn không ít, hành giả Mật tông nên biết mà cảnh giác.

Cái Lạc của Song thân pháp không phải là Đại Lạc mà Phật nói, mà do các thày Mật tông vọng thuyết rằng nếu có thể kéo dài cái Lạc của đệ tứ hỷ này trong mọi lúc không ngừng thì đó là đại Lạc ở Phật địa. Mật tông cho rằng Báo thân Phật đều thường trụ trong cơn dâm lạc này, cho nên họ cũng cho rằng tất cả Báo thân Phật nhất định phải là tượng song thân, vì thế Ngũ phương Phật mà Mật tông giảng đều là tượng Phật ôm người nữ giao hợp hưởng thụ dâm lạc mãi mãi. Ví dụ Tông Khách Ba viết rằng: “Trong “Trí thành tựu” cũng nói: ‘Cái Lạc do nhị căn sinh ra, nói ác là chân thực. Thắng Phật chưa từng nói: Đó là đại an lạc. Phàm thứ do nhân duyên sinh ra, đều không gọi là chân thực’. Người câu sinh thông đạt chân thực nghĩa của quán đỉnh thứ ba, lẽ nào không trái ngược với điều này? Đáp rằng: ‘Không có tội lỗi gì. Lời kinh văn đó là câu sinh trí lúc phá đạo, là câu sinh trí của Tự tính hoặc Tự thể. Chứ không phải nói câu sinh của quán đỉnh thứ ba không đạt chân thực, hoặc nói trong đó không có câu sinh trí’. Điều này giống như “Trí thành tựu kinh” sau này cũng nói: ‘Lạc tất cả bằng cái này, đều không phải Tự tính có, các Tự tính thiện thệ, là Tự tính liễu tri. Tôn quý trong tất thảy lạc, nên gọi là Đại Lạc. Đại Lạc không phải vô thường, Đại Lạc hằng thường trụ’, phá cái lạc phi chân thực kia, vì Chân thực Lạc là cái chỉ ở Phật địa mới có. Cho nên nếu dẫn kinh văn đó để phá cái lạc thông đạt chân thực, thì có lẽ tất cả mọi người học đạo đều không có lạc đó, cho nên, Chân thực Lạc, còn gọi là câu sinh Tự thể hoặc câu sinh Tự tính, nghĩa là không đợi nhân duyên công dụng, tùy ý vận hành tương tục tận vị lai tế”. (21-389)

Trong đoạn văn này, Tông Khách Ba chủ trương câu sinh lạc của Đệ tứ hỷ là cái đến cùng từ lúc sinh ra, không phải là cái do tu mà có. Rồi ông ta còn biện luận rằng: Đệ tam hỷ không phải là câu sinh hỷ, nếu như cái hỷ của quán đỉnh thứ ba mà là câu sinh hỷ, thì cái đệ tứ hỷ của quán đỉnh thứ tư và trong Song thân pháp tu sau đó không thể gọi là câu sinh hỷ nữa. Lại nói rằng: cái Lạc này là cái “có đầy đủ từ lúc sinh ra” của chúng sinh, chúng sinh liệu có chứng được đệ tứ hỷ hay không thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc có thể tính của cái Lạc này trong người chúng sinh hay không, cho nên nói câu sinh lạc của đệ tứ hỷ là pháp thường trụ, là câu sinh Tự thể, là câu sinh Tự tính, là cái liên tục vận hành tùy ý trong hết tương lai.

Thế nhưng những điều này khác xa so với Thức thứ tám Thực tướng tâm mà Phật thuyết. Ở đây nói câu sinh lạc như thế cố nhiên là có công năng năng thành trong thân mỗi người, nhưng Lạc pháp này lại không hiển hiện trước mắt chúng sinh mãi mãi toàn thời gian, mà phải đợi sau khi có nhân duyên thì mới có thể hiện hiện nó. Còn Thức thứ tám Thực tướng tâm mà Phật thuyết, cho dù chúng sinh có chứng được nó hay không thì Tâm Thức thứ tám cũng hiển hiện rõ ràng hằng thường, không từng bị che khuất một giây phút sát na nào, chỉ là người chưa ngộ thì không biết mà thôi, chứ người chân ngộ thì lúc nào cũng có thể hiện tiền quan sát thấy. Cái Lạc của đệ tứ hỷ phải nhờ có đủ các loại duyên, thì sau đó mới khiến cho hành giả Mật tông tu cho nó hiển hiện, rồi sau đó mới có thể hưởng thụ cái pháp xúc trần, chứ không phải là pháp vận hành. Còn Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Phật giảng thì liên tục không ngừng vận hành trong thân chúng sinh, chứ không phải là pháp trong Lục trần, đồng thời có thể được chúng sinh ngày ngày thọ dụng, vận hành nó, chỉ có điều chúng sinh ngày ngày dùng nó mà không thể biết nó, cho nên gọi là “nhật dụng nhi bất tri”. Cho nên, hai thứ đó hoàn toàn khác xa nhau.

Như Lai Tạng ở Phật địa vì biến nhất thiết thời (lan khắp mọi lúc) hiểu biết đầy đủ, nên cũng hiểu biết đầy đủ các pháp thế xuất thế gian, gọi là Nhất thiết trí trí của Nhất thiết chủng trí, thành bậc tôn quý của Tam giới, có đủ giải thoát sắc, tận vị lai tế vĩnh lợi chúng sinh mà không chướng ngại, cho nên gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh. Tất cả những chuyện này đều chứng tỏ Phật pháp chân thực khác xa với cái Đại Lạc đệ tứ hỷ của Song thân pháp trong Mật tông. Một bên là pháp bao hàm trong Lục trần, một bên là pháp có thể sinh ra Lục trần. Tông Khách Ba không biết chân lý này, đã đem cảnh giới dâm lạc đệ tứ hỷ nói thành Đại Lạc thường trụ bất biết, chủ trương dâm lạc của đệ tứ hỷ là câu sinh lạc, cách Phật đạo quá xa xôi!

Tông Khách Ba lại nói rằng: “Trong “Tam thanh tịnh chân thực ca” viết: ‘Tôn không lỗi thường trụ, yêu trong tất thảy tham, Thế Tôn đại tham hỷ, ta tu chân thực tính’, nói không hề có lỗi lầm, là bởi đã đoạn tất cả các chướng và tập khí. Thường trụ là Tam thân thường trụ ở tận hư không tế. Đắc tất cả mọi tham dục ở Tất địa, có thể hành tham trước tất cả sự nghiệp hữu tình, cho nên là cái đại tham có đại bi vô duyên. Dựa vào pháp Vô tướng để sinh hoan hỉ, nên gọi là Đại hỷ. Người có thực hành “dựa chân thực”, nghĩa như nói trong ba (bài) tụng đầu. Đó là giải thích của luận sư Tịch Tĩnh, cho nên gọi cái có (âm) thanh đó là thiện (lành). Nhị pháp tính ca rằng: ‘Thắng pháp tối thanh tịnh, vốn giải thoát Như Lai, Phổ Hiền tất thảy tính, tu Bồ Đề tát đỏa”. Do có đầy đủ thanh tịnh không thoái chuyển, nên gọi là tối thanh tịnh. Bát Niết Bàn là sự thắng diệu trong tất thảy pháp, tối thắng nhất trong các loại thắng diệu gọi là Niết Bàn Phật, vì Tự tính đó nên gọi là thắng pháp. Do Tự tính thanh tịnh nên gọi là vốn dĩ giải thoát; hiểu rõ như thực về Pháp tính chư pháp gọi là Như Lai. Hiền là thiện, Phổ là vô dư, từ cái này có thể sinh ra cái kia vậy. Pháp giới là tất thảy pháp tướng hoặc tự tính, cho nên gọi là tất thảy tính. Người có tâm thể tính Bồ Đề, gọi là Bồ Đề tát đỏa”. (21-323)

Ý văn của Tông Khách Ba trong đoạn này là nói thấy “Thế Tôn” vì đại tham – đệ tứ hỷ - mà thành Phật đạo, cho nên “Ta tu Chân thực tính”, nói người tu đệ tứ hỷ của Song thân pháp như thế có thể đoạn trừ tất cả mọi chướng và đoạn tập khí của Phiền não chướng. Thế nhưng, hiện quan (xét thấy) cái gọi là “người đã thành Phật đạo” của tất cả các tổ sư xưa nay của Mật tông quả thực không có người nào đã phá được Sở tri chướng, huống hồ là đoạn tận Sở tri chướng? Vì sao vậy? Vì tất cả những người đã tu thành công cảnh giới đệ tứ hỷ mà “thành Phật đạo” của Mật tông từ xưa đến nay đều không biết cũng không chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng, trong khi việc chứng đắc trí tuệ Bát Nhã thực tế là sau khi chứng được Thức thứ tám thì mới bắt đầu sinh khởi. Sau khi chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng thì mới có thể tiến tu Biệt tướng trí của Bát Nhã và Nhất thiết chủng trí.

Lại nữa, người đoạn trừ Phiền não chướng, phải bắt tay từ việc đoạn trừ Ngã kiến. Thế nhưng những người thành tựu “Tất địa ở Phật địa” mà các thày Mật tông xưa nay nói đều nhận định Tâm giác tri trong cảnh giới đệ tứ hỷ của dâm lạc là Tâm Thực tướng, là Tâm bất sinh bất diệt. Có điều, tri kiến như thế đều rơi vào trong “Ngã kiến” của phàm phu, mà trong chư kinh Tứ A Hàm, Phật đã nói Tâm giác tri đó là pháp hàm nhiếp trong Ngũ âm, là “Thường bất hoại Ngã” trong quan niệm của thường kiến ngoại đạo, là “Thường trụ bất hoại Thần Ngã”, “thường trụ bất hoại Đại Phạn Ngã” trong quan niệm của ngoại đạo Phạm Ngã, đều là nội dung bao hàm trong Ngã kiến cả. Tông Khách Ba đó chưa đoạn Ngã kiến mà nói là chí tôn thành Phật, chẳng phải là tối đại vọng ngữ ở thế gian ư? Thế mà các thày Mật tông kia tuyệt đại đa số đều không biết, không biện giải, thì sao có thể gọi là những người có trí tuệ được?

Pháp tham nhiễm bất tịnh như vậy, thế mà trong đoạn văn trên, Tông Khách Ba cố tình xảo biện là pháp thắng diệu thanh tịnh, giảo ngôn nói “Tính có thể cảm thụ dâm lạc nó không có hình chất (sắc) nên gọi là Không tính”, nói rằng người tu chứng được như thế chính là thắng diệu pháp thanh tịnh nhất, gọi đó là vốn dĩ giải thoát, gọi là “tính Phổ Hiền”. Tu “Bồ Tát hành” như thế trái ngược rất rất nhiều so với chỉ ý của Phật.

Tông Khách Ba dẫn “Tam thanh tịnh chân thực ca”: “Tôn không lỗi thường trụ, yêu trong tất thảy tham, Thế Tôn đại tham hỷ, ta tu chân thực tính” nói “Thế Tôn” có đệ tứ hỷ dâm lạc của Song thân pháp, và nói Báo thân của “Thế Tôn” thường trụ trong Đại Lạc của đệ tứ hỷ đó, nói rằng cái Đại Lạc này là sự tôn quý nhất thế gian, là không có tội lỗi, là thường trụ; còn cho rằng Đại Lạc này là Chân thực tính của Báo thân Phật, cho nên Tông Khách Ba dạy người ta tu “Chân thực tính” này như thế. Thật đúng là những lời lẽ hồ đồ!

Trước khi muốn vào Sắc giới, thì phải đoạn trừ hết cái dâm lạc này, nếu không thì không thể chứng đắc Sơ thiền, huống hồ có thể thành A La Hán? Huống hồ có thể thành cứu cánh Phật? Thế nhưng các phái của Mật tông đều chủ trương buộc phải tu chứng cái “đại tham hỷ” thô nặng nhất trong Dục giới này, sau đó thành Phật, điên đảo đến thế là cùng! Tông Khách Ba hoàn toàn không hay không biết gì về đại lỗi lầm này, cứ theo đó mà trích dẫn, còn nói “Thế Tôn đại tham hỷ, ta tu chân thực tính”, cho rằng cái dâm lạc này là Chân thực tính, đồng thời chủ trương “phải tu tám thời” – tức mỗi ngày tu tám thời (16 tiếng), như thế cả tháng, cả năm, cả kiếp, cho đến tu cả ngàn kiếp, như thế mới là tinh tấn. Nhưng ông ta không biết người tu như vậy, càng tinh tấn bao nhiêu thì càng đọa lạc bấy nhiêu, càng tinh tấn thì càng xa rời Phật đạo, tăng trợ cho luân hồi mà vĩnh viễn không có ngày chứng được quả Giải thoát. Bởi vì những gì anh ta tu hoàn toàn trái ngược với đạo Giải Thoát mà Phật chỉ dạy.

Lối tu hành Song thân pháp mà Tông Khách Ba nói còn không thể đoạn trừ được Ngã kiến, không thể chứng được giải thoát của Sơ quả Thanh Văn, nói gì đến giải thoát Tứ quả Thanh Văn? Người đã không thể tu chứng quả Giải thoát, không thể xúc chứng Thức thứ tám Như Lai Tạng như thế, mà nói có thể chứng được trí tuệ Bát Nhã giải thoát và Phật Bồ Đề quả, làm gì có chuyện đó!

Tông Khách Ba sau khi trích dẫn bài ca đó, còn tự nói tu hành như thế không có tội lỗi gì, đồng thời có thể đoạn được tất cả mọi chướng và tập khí, nên mới nói: “nói không hề có lỗi lầm, là bởi đã đoạn tất cả các chướng và tập khí”. Thế nhưng, những người tu hành như vậy, thực tế là có rất nhiều lỗi lầm lớn, vì trái ngược với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề mà Phật tuyên thuyết. Người tu như thế, còn không thể phá được bất kỳ chướng nào, huống hồ là có thể đoạn chướng? huống hồ trừ được tập khí của hai chướng (Phiền não chướng và Sở tri chướng). Bởi cái đại tham đệ tứ hỷ của Song thân pháp chính là cái Dục giới ái mà đạo Giải Thoát phải đoạn trừ, cũng chính là “Dục ái trú địa” của Nhất niệm Vô minh nói trong Đại thừa, vốn là thứ phiền não có tầng thứ thấp nhất “tu sở đoạn hoặc” mà thánh nhân Nhị thừa phải đoạn trừ.

Cái “chướng” ở đây có hai loại: Phiền não chướng và Sở tri chướng. Người đoạn được Phiền não chướng chứng quả Giải thát, có thể thoát khỏi luân hồi trong Tam giới; người đoạn được Sở tri chướng có thể chứng được Thực tướng Pháp giới cứu cánh vô dư, chứng được Nhất thiết chủng trí, từ đó mà viên mãn đạo Phật Bồ Đề mà thành Phật quả.

Trong Phiền não chướng có hai loại Kiến hoặc và Tư hoặc cần phải đoạn. Kiến hoặc tức là Ngã kiến. “Ngã kiến” tức là ngộ nhận cái Tâm giác tri là Tâm thường trụ bất hoại, chính là cái mà bậc Thanh Văn Sơ quả phải đoạn. Sau khi đoạn được Kiến hoặc thì mới có năng lực đoạn trừ Tư hoặc. Tư hoặc có ba loại: Dục ái, Sắc ái, Hữu ái. “Dục ái” là chỉ tham trước Ngũ trần của Dục giới, chủ yếu là tham trước dâm dục nam nữ, cho nên còn gọi là Dục giới ái. “Sắc ái” là chỉ chấp trước vào cảnh giới của Sắc giới, chủ yếu là tham trước thân Sắc giới và Tâm giác tri trong Sắc giới định, cho nên còn gọi là Sắc giới ái. “Hữu ái” là chỉ chấp trước vào cái “Hữu – ” của Vô sắc giới, tức là chấp trước, coi Tâm giác tri trong Tứ không định ở Vô sắc giới là Tâm thường trụ bất hoại, và chấp trước vào cái Tâm làm chủ tư lượng trong Vô sắc giới định – bản thân Mạt Na thức.

Như vậy, Dục giới ái là phiền não thô nặng nhất trong Tư hoặc của đạo Giải Thoát cần phải đoạn trừ, cũng là phiền não ở thứ tự nông nhất trong “tu sở đoạn hoặc” trong đạo Giải Thoát, cũng là phiền não cần phải đoạn đầu tiên trong đạo Giải Thoát. Sau khi đoạn xong phiền não này thì mới có thể tiếp tục đoạn phiền não Sắc ái và Hữu ái. Tất cả các phiền não này đoạn hết thì mới thoát khỏi Tam giới. Nay Mật tông không chỉ không đoạn trừ Phiền não chướng cần phải đoạn đầu tiên trong Tư hoặc, ngược lại còn dạy tín chúng phải tu chứng phiền não đại tham thô nặng nhất trong Phiền não chướng mà “chắc chắn sẽ khiến người ta luân đọa trong Dục giới”, nói rằng người tu hành chấp thủ cảnh giới tham ái có thể đoạn trừ tất cả các chướng (tất cả các chướng gồm hai loại là Phiền não chướng và Sở tri chướng), thật đúng là kẻ cả vú lấp miệng em!

Cái tham lớn về Dục giới ái có vị trí thấp nhất trong Phiền não chướng còn chưa thể đoạn, cũng không biết đoạn, huống hồ là Sở tri chướng “Tâm bất tương ứng vô thủy Vô minh trú địa” mà nói cũng có thể đoạn được nó? Chắc chắn không thể có lý ấy! Vì sao vậy? Vì Sở tri chướng là “Tâm bất tương ứng vô thủy Vô minh trú địa” – tất cả các chúng sinh từ vô thủy kiếp đến nay chưa từng tương ứng với vô thủy Vô minh này. Chính vì vô thủy Vô minh này không tương ứng với Tâm giác tri của tất thảy chúng sinh, cho nên gọi là “Tâm bất tương ứng”. Phải đợi khi khởi tâm niệm muốn tham cứu Thực tướng của Pháp giới, thì mới tương ứng với vô thủy Vô minh này lần đầu tiên. Nay Mật tông còn chưa hiểu biết gì về chính tu ở tầng thứ nông nhất trong đạo Giải Thoát thì sao có thể tương ứng với vô thủy Vô minh này. Người không tương ứng với vô thủy Vô minh mà nói có thể đoạn được Sở tri chướng vô thủy Vô minh – “Có thể đoạn tất cả các chướng”, thậm vô lý! Bởi vậy, Tông Khách Ba nói “tu pháp đại tham này không có tội lỗi, vì có thể đoạn tất cả các chướng” quả thực là những lời nói tưởng tượng, buột miệng nói ra mà thôi.

Lại nữa, việc Tông Khách Ba nói tu pháp đại tham này có thể đoạn trừ tập khí cũng là những lời nói vô tri. Vì sao vậy? Vì người nào dựa theo lời Tông Khách Ba mà tu pháp “tức thân thành Phật” này chỉ có thể tăng trưởng thêm tập khí Dục giới tham, tăng thêm nhân duyên luân hồi sinh tử, thì sao có thể tu trừ được chút xíu nào các tập khí của Dục giới tham, mà nay Tông Khách Ba lại nói những lời điên đảo như vậy? Lời nói của “những người có tâm điên đảo” như thế thì sao có thể tin được? Vậy mà các tín đồ Mật tông lại không phát hiện ra sai lầm của ông ta, lại còn mê tín sùng bái ông ta, tin theo và phụng hành, thậm chí thày trò Hoàng giáo còn phong ông ta là chí tôn. Quả thật là bậc chí tôn dẫn dụ chúng sinh luân hồi Tam giới vậy. Các thượng sư Mật tông xưa nay đều là đám ngu mê, sao có thể nói là “người đại căn khí, người thượng thượng căn khí”?

Những pháp hoang đường như thế, pháp do tà kiến bày đặt ra, hoàn toàn trái ngược với pháp của đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề, căn bản thành dâm, thành tà, mà nói là pháp thanh tịnh như thực còn thắng diệu hơn cả Hiển giáo, mà nói là pháp bắt đầu tu sau khi đã viên chứng hai đạo chủ yếu của Hiển giáo. Như thế, thật chẳng khác gì kẻ ngu si nói rằng: “tu học cộng trừ nhân chia, rồi học đại số, sau đó học tích phân trước đã, rồi hãy theo ta học pháp tích phân thượng thượng đẳng”, thế nhưng tham cứu cái “pháp tích phân thượng thượng đẳng” thì mới phát giác ra rằng pháp của họ còn không phải là pháp cộng trừ nhân chia, chỉ là học đếm ở trong trường mẫu giáo – học đếm một, hai, ba – mà thôi. Thế mà các thày truyền pháp của Mật tông kia lại không hề biết sự thực này, rất nhiều người học Mật pháp cũng không biết sự thực này, nên tôi nay mới viết cuốn sách này phân tích rõ cho tất cả mọi người biết, sau này có thể tránh được tự nhầm lại dẫn dắt nhầm người khác, hoang phí thời gian và tiền tài, để có thể chuyển sang tu Phật pháp chính tu trong Phật môn, thế mới là cái phúc của đại chúng vậy.

Tông Khách Ba còn nói trụ ở Đẳng chí như vậy – nam nữ cùng trụ ở trong đại lạc đệ tứ hỷ mà nhất niệm bất sinh – tức là Bát Niết Bàn. Tuy nhiên, cái “Niết Bàn” đó, kỳ thực khác xa và trái ngược hẳn với Niết Bàn mà Phật giảng trong Tứ A Hàm, nhầm lẫn cực lớn. Cái Niết Bàn vô dư mà Phật tuyên thuyết trong Tứ A Hàm là chỉ việc diệt hết toàn bộ Thập bát giới thì mới được gọi là Niết Bàn vô dư. Người muốn chứng được Niết Bàn vô dư như thế, nhất định phải đoạn trừ Ngã kiến “Tâm giác tri Ngã thường trụ bất hoại” trước tiên, rồi tiến đến đoạn trừ sự tự chấp trước “Giác tri tâm Ngã, tư lượng tâm Ngã”, khi xả thọ mới có thể thủ chứng Niết Bàn vô dư. Thế nhưng, Tông Khách Ba lại nhận lầm cái “Ngã” đó là Tâm thường trụ bất hoại, đọa thẳng vào trong Ngã kiến, Ngã chấp, muốn đem cái Tâm mà Phật nói lúc nhập Niết Bàn phải diệt trừ đi để nhập vào Niết Bàn, hoàn toàn trái với lời Phật, còn không phải là Sơ quả Thanh Văn mà Phật dạy thì sao có thể nói là người đã thực chứng được Niết Bàn? Vô lý!

Phật nói rằng người muốn nhập Niết Bàn vô dư thì phải đoạn diệt Thập bát giới – bản thân Giác tri tâm và Tư lượng tâm cũng phải diệt trừ, khi đã diệt trừ tất cả Thập bát giới thì chỉ còn lại duy nhất Thức thứ tám Như Lai Tạng lìa kiến văn giác tri mà thường trụ. Tông Khách Ba thì lại đem Tâm giác tri ở mãi trong cảnh giới đệ tứ hỷ để hưởng thụ khoái lạc, cho rằng đó là Niết Bàn vô dư, đúng là Phật nói một đằng thì ông ta nói một nẻo, sai khác đâu chỉ là ngàn vạn dặm? Tông Khách Ba coi cái Niết Bàn nhận lầm đó mà bảo rằng đó là Niết Bàn mà Phật nói, nên mới viết rằng: “Bát Niết Bàn là sự thắng diệu trong tất thảy pháp, tối thắng nhất trong các loại thắng diệu gọi là Niết Bàn Phật, vì Tự tính đó nên gọi là thắng pháp”, ông ta coi “Niết Bàn vô dư” của ngoại đạo do mình tự tưởng tượng ra là cảnh giới Niết Bàn mà Phật tuyên thuyết, lấy cảnh giới dâm lạc của Dục giới để thay thế cho cảnh giới Báo thân Phật mà Phật từng giảng. Việc đoạt hồn cướp xác như vậy, ngang nhiên thay đổi pháp nghĩa trong tu chứng Phật giáo, khiến cho nó thay đổi từ bên trong Phật giáo để trở thành tôn giáo của ngoại đạo, thì sao không gọi ông ta là kẻ phá hoại chính pháp của Phật giáo? Thế mà người trong Mật tông lại suy tôn kẻ phàm phu này, kẻ kẻ phá hoại chính pháp Phật giáo này làm bậc chí tôn trong Phật giáo? Điên đảo đến thế là cùng!

Kẻ đem pháp ngoại đạo thay thế Phật pháp khiến cho Phật giáo biến chất thành ngoại đạo pháp như vậy, bản chất của ông ta còn thấp kém hơn cả kẻ phàm phu truy cầu pháp thế tục. Vì sao vậy? Vì phàm phu thế tục trong tín ngưỡng nhân gian, họ có tâm lương thiện, tuyệt đối không phá hoại pháp nghĩa Phật giáo mà bản thân họ không biết, không hiểu, chỉ là có tâm sùng tín nhưng tạm thời không vào Phật môn tu học mà thôi. Thế nhưng, thày trò Mật tông như Tông Khách Ba không biết lại nói mình biết, chưa chứng lại nói mình chứng, lại đem ngoại đạo pháp thay thế cho chính pháp của Phật giáo, sùng bái ngoại đạo phái Tính Lực, đem nó chụp lên trên Phật pháp Tam thừa, sùng Mật ức Hiển. Lại đem tri kiến tà trái, sai lầm ra giải thích rằng ngoại đạo pháp kia mới là Phật pháp cứu cánh nhất. Trước những sự việc đó, tâm họ đáng bị tru diệt, hành vi họ độc ác, còn thấp kém hơn cả tục nhân phàm phu bình thường, làm gì có chỗ nào đáng tôn quý mà nói? Thế mà kẻ phá hoại chính pháp Phật giáo không bằng người thế tục như thế, mà sao thày trò Mật tông lại phong ông ta là bậc chí tôn trong Phật giáo?” Ngu mê đến mức độ đó, thật khiến người ta than thở khôn nguôi!

Lại nữa, kẻ phàm tục ở thế gian còn biết chủ trương “dâm dục cũng phải dừng ở mức vừa phải”, huống hồ “pháp môn thành Phật chí cao vô thượng trong Phật giáo” lại tu pháp thế tục này để cầu chứng cái dâm dục cực lạc này? Người thế tục thông thường khi đã đạt được thỏa mãn dâm dục tương đối (ví dụ như đã đạt được cực khoái tình dục rồi) thì còn biết nghỉ ngơi. Thế nhưng, những người như Tông Khách Ba của Mật tông, đạt được cực khoái tình dục rồi mà vẫn chưa thấy thỏa mãn, còn muốn cầu cái Lạc nằm mãi mãi trong cực khoái tình dục, dựa vào cái dâm lạc đó để tiếp tục cầu đến Đại Lạc của đệ tứ hỷ, nhằm được thường trụ mãi mãi trong cực lạc này. Hành vi đại tham Dục giới như thế mà lại nói nó là pháp cứu cánh nhất, pháp vi diệu nhất chí cao vô thượng, sao không gọi là kẻ điên đảo? Ấy vậy mà các thày Mật tông lại sùng bái kẻ điên đảo đó, phong là bậc chí tôn, thật nực cười vô cùng!

Lại nữa, trong Hoàng giáo còn có người chủ trương rằng chỉ cần tu Vô thượng Yoga Minh Không song vận (Minh Không Đại thủ ấn) là có thể thành Phật. Như Thượng sư Trần Kiện Dân cho rằng: “Đó chỉ là Pháp thân một phần, buộc phải kiêm tu Vô thượng Yoga Lạc Không song vận thì mới có Pháp thân toàn phần”. Không chỉ Trần Kiện Dân nhận định như vậy, mà Hồng Bạch Hoa giáo cũng đều nhận định như vậy. Cho nên, có thể nói rằng pháp môn tu hành của Mật tông chắc chắn không rời khỏi Song thân pháp. Cái tôn giáo truy cầu dâm dục chí lạc, cực lạc bằng Song thân pháp như thế, nếu như có thể gọi nó là Phật giáo, thì chắc chắn sẽ khiến cho Phật giáo chính thống xấu hổ che mặt. Bởi vậy mới nói, tất cả những người trong Phật môn đều phải cực lực tẩn trừ tà kiến Song thân pháp này ra ngoài Phật môn, để tránh cho những người học khác trong Phật môn lại bị tà kiến này mê hoặc dụ dỗ, tránh để Phật giáo bị các học giả nghiên cứu Phật giáo phương Tây liên tục sỉ nhục, chịu nỗi oan khuất không biết tỏ cùng ai.

Pháp tu song thân trái ngược với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề, cứ thế dâm dâm tương truyền, phá hoại giới luật Bồ Tát mà Phật đã đặt ra. Người tu pháp này tất sẽ thành ma dân, ma nữ, sau khi chết sẽ bị ma vương nhiếp thụ, vĩnh viễn tuyệt duyên với chính pháp Phật giáo. Kinh điển Chân Mật “Lăng Nghiêm kinh” trong quyển 8 đã bác bỏ rất rõ ràng: “tinh sắc kiên cố (bền vững) mà không nghỉ ngơi, hấp (tinh) túy viên thành, gọi là Thông hành tiên…Giao cấu bền vững mà không nghỉ ngơi, cảm ứng viên thành, gọi là Tinh hành tiên… Này A Nan! Đó đều là luyện tâm ở nhân gian, không theo chính giác, có thể đạt được sinh lý riêng, thọ ngàn vạn tuổi. Nghỉ ngơi ở nơi thâm sơn hoặc đảo ngoài biển lớn, tuyệt giao với cảnh người. Đó đều là vọng tưởng luân hồi lưu chuyển, không tu Tam Muội, khi phúc báo tận, phải quay về tán nhập vào các thú (đạo luân hồi)”.

Pháp môn tức thân thành Phật hợp tu song thân của Mật tông chính là pháp môn tu hành của ngoại đạo “Giao cấu bền vững mà không nghỉ ngơi”, sau này khi cảm ứng viên thành, sẽ trở thành Tinh Hành Tiên, có thể hiển hiện những thứ đặc dị để mê hoặc chúng nhân, bèn dám tự xưng thành Phật để lừa dối chúng sinh. Việc thăng đến Không Hành tịnh độ của các thượng sư Mật tông như Liên Hoa Sinh chính là cảnh “có thể đạt được sinh lý riêng, thọ ngàn vạn tuổi. Nghỉ ngơi ở nơi thâm sơn hoặc đảo ngoài biển lớn, tuyệt giao với cảnh người” mà Kinh Lăng Nghiêm nói đến. Những người như thế không biết rằng thọ mệnh của mình sẽ có ngày tận số, cho rằng có thể trường sinh bất lão, thế nhưng Thế Tôn đã sớm thọ ký rằng: “Đó đều là vọng tưởng luân hồi lưu chuyển, không tu Tam Muội, khi phúc báo tận, phải quay về tán nhập vào các thú”. Cho dù có thọ đến ngàn vạn tuổi, rốt cuộc cũng có ngày phải chết, sau khi xả báo vẫn phải luân hồi trong Tam giới, chỉ có điều là những kẻ đó hiện nay không tự biết mà thôi. Những người có trí đều nên tránh xa họ, chớ có rơi vào trong tà kiến này.

Lại nữa, những người dựa vào Song thân pháp mà thành Phật, chứng tỏ họ không phải thành Phật thật, vì còn phải dựa vào ngoại pháp mới có thể thành tựu được “Phật” như thế, bởi pháp này là pháp có tầng thứ thấp nhất trong Tam giới. Vì sao phải dựa vào ngoại pháp? Vì phải dựa vào các pháp như Minh Phi hoặc thủ dâm “tự tu trên ngón tay”, vì dâm lạc trên thân chỉ là ngoại pháp mà thôi. Người chứng đạo Giải Thoát trước hết phải đoạn trừ cái tri kiến “Tâm giác tri trong dâm lạc là thường hằng bất hoại”, sau đó tiến đến đoạn cái tham trước vào pháp dâm lạc này, lại tiến đến đoạn Sắc giới ái, cuối cùng là đoạn nốt Vô sắc giới ái. Như thế mới gọi là người đoạn trừ được Phiền não chướng, trở thành thánh nhân của Tiểu thừa. Vị A La Hán này nếu quay về với Đại thừa, trong Biệt giáo Đại thừa gọi là Bồ Tát Hiền vị, tối đa là vào được Lục trụ vị mãn tâm, còn chưa phải là thánh nhân của Biệt giáo, vì chưa phá trừ được Sở tri chướng, chưa chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn.

Thế nhưng các thày Mật tông lại chủ trương cần phải tu cái pháp nhân gian có tầng thứ thấp nhất khiến người ta trầm luân ở Dục giới đó, tự mình tu còn chưa đủ, lại dạy người khác tu cùng. Thỉnh thoảng tu vẫn cảm thấy không đủ, Tông Khách Ba còn dạy phải “tu tám thời”, hơn nữa phải tinh tấn tu tám thời mỗi ngày, thậm chí còn nói “vân vân” (vân vân là chỉ tu cả ngày, cả tháng, cả năm, cả kiếp, cả ngàn kiếp). Tâm địa ông ta đảo lộn đến mức đó, thế mà hành giả Mật tông vẫn hết lòng tin theo, không chút nghi ngờ. Đó chẳng phải là sự mô tả về cái căn khí hạ hạ thời Mạt pháp hay sao? Những người dựa vào ngoại pháp mà tu như vậy, sao có thể tu thành Phật đạo cứu cánh được? Những người tu dựa vào “Lạc Không bất nhị, Lạc Không song vận” của ngoại đạo pháp, còn chưa thể chứng được đạo Giải Thoát của Nhị thừa, thì sao có thể chứng biết được đạo Phật Bồ Đề của Đại thừa mà ngay cả La Hán Nhị thừa cũng không thể biết? Tuyệt không thể có lý ấy!

Pháp tức thân thành Phật của Mật tông như thế, đâu chỉ không thể thành tựu Phật đạo, mà còn vì tội phá giới, phá pháp, họ chắc chắn còn phải đọa xuống ác đạo, chịu nỗi thuần khổ cực nặng. Thế mà sao các thày Mật tông lại không biết điều này? Tại sao những người học Mật tông lại mê tín theo họ tu học? Lẽ nào họ không thèm quan tâm đến quả báo kiếp sau của mình hay sao?

“Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện kinh” nói: “Nếu có chúng sinh làm chảy máu thân Phật, phỉ báng Tam Bảo, không tôn kính kinh, thì sẽ phải đọa vào địa ngục Vô gián, thiên vạn ức kiếp cầu không có ngày ra. Nếu như có chúng sinh xâm hại làm tổn thương Thường trụ, làm ô nhục tăng ni, hoặc tư hành dâm dục ở trong già lam (chùa, tự viện), hoặc giết hoặc hại, những kẻ như thế sẽ phải đọa địa ngục Vô gián, thiên vạn ức kiếp cầu không có ngày ra”. Nay xem việc tu chứng Song thân pháp của các thày Mật tông từ xưa đến nay, tất phải lõa lồ vô sỉ mà hành dâm trong tự viện hoặc trong Phật đàn tự lập, trước mặt tượng Phật. Hành dâm xong, còn đựng hỗn hợp dâm thủy của nam nữ vào trong bát Ca ba lạp (kapāla) để mà cúng “Phật”, gọi đó là cúng dường cam lộ. Tà hành như vậy, hạ nhục Phật như vậy, thì sẽ bị như “Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện kinh” nói: “tư hành dâm dục ở trong già lam…, những kẻ như thế sẽ phải đọa địa ngục Vô gián, thiên vạn ức kiếp cầu không có ngày ra”. Tất cả các Lạt Ma và hành giả tại gia của Mật tông nếu có trí tuệ thì hãy nên lựa chọn cho kỹ.

Lại nữa, trong các Mật tục do thượng sư Mật tông tự tạo ra cũng nói người mà Minh điểm () Trung mạch đã rõ ràng, Bảo bình khí đã thành tựu, có thể tự tại thu phóng Minh điểm, thì cũng có thể hợp tu pháp này với tỳ kheo ni, tự nói rằng như thế không phạm giới Tam muội da. Thế nhưng, giới Tam muội da là giới do những người như Tất Ngõa Ba, Liên Hoa Sinh của Mật tông nói thác rằng do Phật đặt ra, kỳ thực đều là giới pháp mà họ tự bày đặt, không phải là giới do Phật thiết lập. Trong “Phật giáo Mật tông” ở Đài Loan hiện nay, quả thực có không ít tỳ kheo ni từng thụ Mật quán và Huệ quán, và từng hợp tu Song thân pháp với nam thượng sư Mật tông. Những thượng sư Mật tông đó, không chỉ tư hành dâm dục trong già lam, mà còn là những kẻ “làm ô nhục tăng ni”. Theo “Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện kinh” nói, thì “những kẻ như thế sẽ phải đọa địa ngục Vô gián, thiên vạn ức kiếp cầu không có ngày ra”.

Nay khuyến cáo các thày Mật tông: Hãy nhanh chóng hủy bỏ giới Tam muội da do các tổ sư Mật tông tự bày đặt ra, nhanh chóng rời bỏ Mật tông, chớ có tiếp tục dính đến Song thân pháp, chớ có tiếp tục hoằng truyền Song thân pháp. Hãy ngày ngày khẩn thiết sám hối trước Phật, không được ngừng nghỉ, cho đến khi thấy được hảo tướng. Nếu không, khi giờ xả thọ đến, muốn cầu thoát, trong lòng tất hận mình không còn có cơ hội – vì khi đó tất cả đều không thể làm gì được nữa.

Bình Thực tôi vốn nghĩ cho kiếp sau của đại chúng, không muốn người học Mật tông và đại chúng đời sau cùng vào địa ngục, cho nên mới có ý tốt, khẩn thiết khuyên nhủ, phân tích chi tiết những chỗ tà trái trong pháp nghĩa và hành môn của Mật tông, chỉ cầu mong các thày và chư tín chúng Mật tông lĩnh nhận thiện ý này thôi.

Phàm là người học Phật môn chúng ta, trên từ tất cả các đại sư, dưới đến tất cả những người tu học, đều phải cùng nhau tẩn xuất pháp tu song thân này ra khỏi Phật môn, đều nên khuyên nhủ thày trò Mật tông sửa lại pháp nghĩa của Mật tông cho đúng, quay về với pháp nghĩa Tam thừa vốn có, cùng nhau vứt bỏ các loại ngoại đạo pháp như Trung mạch, Minh điểm, Bảo bình khí và Song thân pháp… ra khỏi cửa Phật, chớ để pháp nghĩa Phật giáo bị ngoại đạo pháp vấy bẩn, một là có thể khiến cho Phật giáo không còn xấu hổ che mặt, hai là có thể giúp tất cả người học không còn đi nhầm đường nữa, để sau có thể tu chứng chính pháp của Phật giáo, thì đại chúng ngày nay và mai sau đều được hưởng lợi ích. Bình Thực tôi một lần nữa kêu gọi, nguyện tứ chúng đệ tử trong giới Phật giáo chúng ta đều có cái nhìn đúng đắn về vấn đề này.

 


Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 0