Chân tướng
Mật Tông Tây Tạng

Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.

Mục 5 – Nội quán đỉnh

Về Nội quán đỉnh, thượng sư Liên Hoa Sinh nói:

“Muốn để Minh điểm tăng trưởng, hành Sự nghiệp Thủ ấn. Nên dùng người 16 tuổi có liên (âm hộ) nhũ (vú) đều béo múp, eo nhỏ khiến cho nam (nhân) sinh ra cái (khoái) lạc không (thể) nhẫn (nhịn) nổi, thân Bản tôn của mình và người ấy minh hiển. Ba nơi ba chữ, chữ tề hồng xá an trú trên tòa liên nguyệt. (sau khi bắt đầu hợp tu, cần quán tưởng) thịt da não tủy dưới Thiên linh cái (trên) đỉnh của (thân) mình có (chữ) Bạch Hàng xuống dưới như thủy ngân, Minh điểm 16 như hạt cải vây quanh, trên tòa liên nhật ở búi tóc thịt (nhục kế) trên đỉnh đầu, đương khi thượng sư Kim Cương trì Phật Phụ mẫu song vận (khi thượng sư Bản tôn và Minh phu cùng hành dâm và sinh khởi cảnh giới Lạc Không song vận trong quán tưởng), giáng hồng bạch Cam lộ vào Phạm môn (giáng hạ hồng bạch Cam lộ vào trong đỉnh đầu của hành giả), đến “chữ Hàng” tươi sáng tăng quảng ánh sáng hồng bạch, làm sung mãn Minh điểm 16, giáng xuống Hầu và Tâm. 8 Minh điểm trì mệnh thì an trú ở đây, 8 Minh điểm còn lại thì giáng xuống Tề (rốn), giữ lại 4 cái làm Minh điểm trì mệnh. 4 Minh điểm còn lại giáng xuống Mật xứ (chỗ kín), giữ lại 2 Minh điểm trì mệnh. 2 Minh điểm còn lại giáng đến đầu chùy, hòa nhập với chữ Phi màu lục vàng tham giải thoát pháp vốn dĩ của mình, Minh điểm trong mạch thân sung mãn. Đó là pháp song vận cực thâm sâu mà trì khí duyên vào, là yếu quyết an lạc quảng đại toàn thân. Bản tôn Mật tu mạch giới (Mật tu Trung mạch và chủng tử) với Hợi mẫu (Minh Phi) đồng thời song vận (bản thân mình và Minh Phi cũng như vậy, đồng thời song vận mà tu với thượng sư Bản tôn Minh Phi trong quán tưởng), (từ nửa đêm cho đến) tảng sáng không ngừng thực hành. Lực đại căn minh hiển, Mạch giới bất loạn, chủ yếu truyền dạy những thứ này. Trước (Minh Phi) cụ tính tướng, gia trì Mật xứ của mình và đối phương (gia trì hạ thể của mình và Minh Phi), cuối cùng không giữ lại tư tưởng phàm phu dung tục (không suy nghĩ bản thân mình và Minh Phi như là phàm phu dung tục), nhị căn tương hợp (giao hợp với hạ thể của Minh Phi), (rồi làm) các loại hành tham dâm. (Lúc chính tu), cần thực hiện thân tâm thư giãn, an trú trên bản tịnh vô duyên, đó là lời truyền dạy chân thực như ao bít lỗ. Lúc dao động (nếu khi tâm dao động mà sắp sửa xuất tinh), với người mới tu, lạc khởi là phải trì ngay (khi lạc xúc sinh khởi thì phải giữ chặt không động cựa), theo tri lượng về lạc mà dao động (cần khéo biết mức độ mình có thể nhẫn nhịn đối với lạc xúc mà phối hợp dao động). Lạc sinh thì (ngừng lại) bất động, thư giãn tâm mới là quan trọng. Cần phải biết pháp rùa: Như cái lạnh trong ao, phải từ từ bò ra ngoài. Hễ gặp mặt trời quá nóng, thì từ từ bò vào trong ao. Đó là thượng khẩu quyết. Pháp thiện xảo: Nếu hành quá mãnh liệt, thì sẽ như đá rơi từ vách núi, không thể rút quay về được. Phải như thượng dụ (dặn ): Thân minh hiển Bản tôn, Tâm thư giãn không chấp bám, an trú bản tịnh mới quan trọng. Từ trên giáng xuống dưới có Tứ hỷ, từ dưới thăng lên trên cũng có Tứ hỷ, song vận Tứ hỷ, từ đỉnh đầu 16 Minh điểm giáng xuống Hầu là Hoan hỷ, là Bình quán, là thông đạt Minh điểm song vận. Từ Hầu giáng xuống Tâm là Thắng hỷ, là Mật quán, là thông đạt Không Lạc song vận. Đến Tề (rốn) là Ly hỷ, là thông đạt quán đỉnh thứ ba, xả bỏ chấp trước vào hỷ, đoạn phân biệt hai chấp, Không sắc (Sắc thân không có thịt của Bản tôn quán tưởng) như trời xanh không mây, Pháp thân hiển hiện (khi Lạc Không song vận, Tâm giác tri bất động thì Pháp thân hiển hiện). (Khi Minh điểm giáng) đến Mật xứ (cảm nhận Đại Lạc thật lâu mà không xuất tinh), là Câu sinh hỷ, là quán đỉnh thứ tư, là thông đạt Không Lạc Câu sinh trí. Thượng căn thì nhận biết trên bản thể Pháp thân, nếu có thể an trú ở đây, công năng đề tán tự nhiên đầy đủ. Trung căn thì trung khí nổi trống bụng, có thân yếu, mắt nhìn chữ Đỉnh Hàng, tịnh phần có thể quay trở lại, dùng pháp dê rùng lắc để lan khắp toàn thân, từ thượng thăng thượng đến Tứ hỷ, Minh điểm ở đầu chùy không rớt mất (tinh dịch trụ lâu trong quy đầu mà cảm nhận Đại Lạc, không vì có Đại Lạc mà xuất ra), thăng đến chỗ Tam mạch hội hợp, có chữ A, đó là Phật Mẫu Bát Nhã đại lạc. Minh điểm này tập hợp ở Không sắc loại thứ nhất, như trời xanh không mây, thông đạt Thắng quán kiến, là lên địa Kiến đạo Đại thừa. Lúc đó, nút thắt Trung mạch mở, từ đó đến rốn, Minh điểm thượng thăng theo thứ tự là Nhị địa, Tam địa, công đức của nó đầy đủ chính kiến thanh tịnh, như ghi chép trong các Mật tục. Khi Minh điểm sung mãn Tề luân, trên rốn trụ tiếng phụ mẫu, 12 (pháp) truyền dạy mà Phật nói, hiểu biết không bị ngăn ngại. Từ dưới rốn trở xuống là công đức chủng tính liên hoa đầy đủ. Sau đó đến Tâm, an lạc sung mãn, mạch giữa Tâm mở, trí tuệ Pháp thân tăng lớn, ánh sáng không phân trong ngoài minh hiển hiện Mạch giới thân, như tứ chi có thể hiển hiện tứ châu, tu ly Năng Sở, thông đạt tu Đạo trí. Sau đó, đến Hầu mở mạch, đắc Báo thân thành tựu, tất cả truyền dạy biện chứng mà Phật nói đều đắc tự tại, các ngôn ngữ khác nhau đều có thể thông đạt. Sau đó đến Đỉnh đại lạc luân, hiện chứng vô học đạo quang minh, đến thế giới Hoa Tạng, địa đạo nhất thời viên mãn, thông đạt Đạo chủng trí và Thập địa kiến. Từ đây đến nhục kế, sung mãn trong đó, 32 nút mạch trong Trung mạch, cho nó mở hết ra xong, trong một sát na viên mãn công đức đoạn chứng, đắc Phổ Hiền Vương Như Lai vị từ gốc xưa đến nay, hiện chứng 16 địa Vô thượng trí. Từ trên giáng hạ Tứ hỷ, là gia hành tư tương tất thảy đạo thế gian. Từ dưới lên trên là đạo xuất thế gian, một đời thành Phật. Đó là đạo người nữ thậm thâm, chuyên nhất tinh tấn là quan trọng. Đối trị, thanh tịnh kiến, tinh tấn, ba thứ này đều phải có đủ, không được tự lừa dối. Ở chỗ người nữ mà hành lậu rớt Bồ Đề (khi hành pháp tu song thân này trên thân người nữ, nếu để rớt mất tinh dịch “bạch Bồ Đề”), là phạm giới Biệt giải thoát. Tự tâm tham đồ an lạc (chỉ cầu hưởng thụ an lạc cho riêng mình mà không thèm để ý quan tâm đến người nữ liệu có cùng đạt đến cực khoái tình dục như mình hay không) là phạm giới Bồ Tát. Đoạn táng Minh điểm (nếu xuất tinh mà để lậu rớt tinh dịch Minh điểm), tức là đoạn tất thảy tâm mệnh Không hành Bản tôn, phạm vào giới Căn bản của Mật tông, niệm chú không có sức mạnh, là thứ mà Bản tôn và tất thảy Không hành đều bỏ, sự nghiệp không thành tựu, hộ pháp do tự ô nhiễm mà che đoạn, tất thẩy sự nghiệp đều không thể thành công. Cho nên, Minh điểm không may mà lậu rớt (cho nên, phải giữ gìn bảo vệ tinh dịch, không cho lậu rớt), người đồng bạn phạm giới cần lìa xa. Ngô Tử! Ngươi muốn tu pháp Mật tông này, cần yêu quý và bảo vệ Minh điểm (cần gìn giữ bảo vệ tinh dịch), như bảo vệ mắt Phật. Cần biết rõ về thứ tự sinh khởi Tứ hỷ, ban đầu trụ bình đẳng cùng Nghiệp ấn (lúc mới bắt đầu thì cùng Minh Phi trụ bình đẳng ở trong cực khoái tình dục), (sau đó lại) từ Đỉnh giáng xuống Hầu, thân lạc sinh khởi. Từ Hoan hỉ trí, xả bỏ hai chấp (từ đại lạc này mà xả ly nhân ngã chấp và pháp ngã chấp), khế hợp Nhị thừa kiến (khế hợp Kiến địa đạo Giải Thoát mà Nhị thừa tu chứng). Tịnh phần đến Tâm, lạc càng lớn (Tịnh phần hồng bạch Bồ Đề của hai bên nâng lên khi đạt cực khoái tình dục, nếu có thể nâng lên đến Tâm luân thì cái lạc đó càng lớn). Từ Thắng hỷ đoạn ngã chấp phân biệt, khế hợp Bồ Tát kiến. Minh điểm đến Tề luân, đại lạc lan khắp toàn thân, từ Ly hỷ trí, đoạn thủ ấn chấp, khế hợp Tông kiến. Sau đó đến Mật xứ, an lạc vô phân biệt, cái nhân không nói, sinh Câu sinh hỷ, đoạn Hoan hỉ trí phân biệt của quán đỉnh thứ ba, khế hợp bí mật vô thượng, trì Minh điểm kiến. Quan sát trên thể an lạc như thế, lĩnh nạp không nói, triệt kiến Bản tính, giác thụ ở đó không tán, cần phải tinh tấn đấy”. (34-553~556)

Đó là những khẩu quyết nói trong “Hợi Mẫu thậm thâm dẫn đạo” của thượng sư Liên Hoa Sinh, dựa vào Sự nghiệp Thủ ấn – Minh Phi thực thể - để nhanh chóng thành tựu pháp tu Minh điểm trong thân, cũng gọi là Nội quán đỉnh.

Trong Nội quán đỉnh này cũng có các tên gọi của Tứ quán:

“Câu sinh chính trí, sinh khởi quảng đại tất cả đều dựa vào đây (Việc sinh khởi rộng lớn của “Câu sinh chính trí”, toàn bộ đều dựa vào pháp tu song thân mà có). Nay ta nhiếp trì không xấu hổ, như Bình, Từ cũng dựa vào đây. Ba chốn Không hành Diệu duyên Thường thân cũng dựa vào đây. Khiến anh ta (đệ tử) tịnh tín cũng dựa vào đây. Truyền dạy tăng ích cũng dựa vào đây. Lại hồi nhớ lúc 19 tuổi trụ ở chùa Sắc Đa Khẩn, mơ thấy sa môn vừa ý nhỏ một năm, thân tướng trang nghiêm, ăn vận viên mãn, tay cầm bảo kiếm, kinh hàm, bốn ấu nữ (người nữ nhỏ tuổi) đứng hầu bốn phương. Ta cho rằng (đó là) Tịch Thiên Bồ Tát, cầu quán đỉnh Kim Cương trong Mật tập, như thế lần lượt đắc Tứ quán. Trong số bốn người nữ, người yểu điệu tuyệt sắc hôn với ta, ta vuốt ve cặp vú cô ấy. Lại ôm cô ấy nói: “Đây là Bình quán đỉnh”. Chủ tôn cầm kiếm hóa thân cùng Đẳng trì với bốn người nữ, khiến quán sinh tham tâm (hóa thân của chủ tôn kia cùng bốn người nữ đồng thời nhập vào trụ trong dâm lạc, giúp nhau ngắm nhìn mà sinh khởi tâm tham muốn đắc dâm lạc). Họ song vận chảy ra Bồ Đề tâm (bọn họ hai bên giao hợp mà chảy ra dâm dịch), đầy Thiên linh cái (rót đầy vào trong cái bồn cúng làm bằng đầu lâu người), ta lại nếm (ta lại nếm dâm dịch đó), sắc hương như băng phiến, nói: “Đây là Mật quán đỉnh”. Giao nữ lệnh mật mật tương khế (đem người nữ giao cho ta và bảo ta cùng người nữ tương khế mật khít cả phần thân trên và dưới), trên đè vú, dưới cắm sen (đút vào âm đạo), Đại Lạc sinh, chảy Minh điểm (xuất ra tinh dịch), nói: “Quan sát, hãy quan sát! Đó là Huệ quán”. Nhờ niệm chữ Hồng mà Minh điểm thăng lên trên, toàn thân an lạc, nói: “Đó là quán đỉnh thứ tư”. Lại nói: ‘Cầm tay là Bình quán, dâm ngữ là Mật quán, sờ vú là Huệ quán, hôn miệng là Tứ quán (quán thứ tư), đó là bốn quán trong quán đỉnh. Thượng sư phụ mẫu bình đẳng trú là Bình quán, nghe thượng sư phụ mẫu sen chùy rút chọc là Mật quán. Nhờ đó, Minh điểm hạ xuống là Huệ quán, sinh khởi tâm tham muốn hành sự là quán đỉnh thứ tư. Đó là bốn quán trong Mật quán. Ôm thiếu nữ là Bình quán, cùng nhau nghịch vuốt ve sen chùy là Mật quán, rút chọc là Huệ quán, Minh điểm giáng hạ, đại lạc sinh khởi là quán đỉnh thứ tư. Đó là bốn quán trong Huệ quán. Hồng bạch Minh điểm tập hợp thăng lên, tứ luân lần lượt lan đầy, là Tứ hỷ, tức là bốn quán trong quán đỉnh thứ tư’” (34-618).

Đó là thượng sư Mật tông Tây Tạng mạo danh của tổ sư phái Giác Nãng Ba “Đả Na Lạp Đạt (Đa La Na Tha)” để nói khẩu quyết, trích từ bản dịch của Thượng sư Trần Kiện Dân.

Quán đỉnh mà muốn thực hành như pháp, nghi quỹ của nó cực kỳ phức tạp, vì chương tiết rất lớn nên không tiện sao chép. Hơn nữa, sao chép các chi tiết trong nghi quỹ không có ý nghĩa trực tiếp trong việc biện chính pháp nghĩa của Mật tông, cho nên tôi không chép lại. Độc giả muốn biết chi tiết, có thể tìm mua cuốn sách số 76 liệt trong danh mục sách tham khảo, dựa theo ý nghĩa bí mật phơi bày trong cuốn sách này mà đọc sẽ hiểu, tự biết ý nó, cho nên ở cuốn sách này không nêu ra nữa, chỉ thực hiện biện chính pháp nghĩa thôi.

 

 


Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 0