Chân tướng
Mật Tông Tây Tạng

Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.

Tiết 5: Tổ sư Mật tông hay coi A Lại Da thức và Như Lai Tạng là hai pháp khác nhau

Đa số các tông phái của Mật tông đều coi A Lại Da thức và Như Lai Tạng là hai pháp khác nhau chứ không phải là cùng một pháp, đồng thời còn cho rằng A Lại Da thức không phải là Tâm, mà là Minh điểm. Ví dụ, trong cuốn “Trát mạc nang đôn – Thậm thâm nội nghĩa” có nói thế này: “Có người nói A Lại Da là A Lại, không phải là (nguyên) nhân thanh tịnh tướng; Hoặc còn gọi là A Lại Da thức, là (nguyên) nhân tịnh tướng. Vì sao lại có hai nghĩa trái ngược nhau như thế? Cái A Lại Da thanh tịnh đó, tức là nhân của A Lại Da thanh tịnh, chứ không phải là tự nhân (nguyên nhân nội tại chính nó) của Niết Bàn Phật. Có người nói: ‘Không phân biệt (khác) so với bạch pháp Phật Bồ Đề (Bạch Minh điểm), dựa vào lý chính kiến, có thể an lập trên A Lại Da thức hay không? Nếu không thể, thì pháp tự thanh tịnh đó vì sao lại sinh khởi thế?’ Đáp rằng: ‘Trước ta thường nói Pháp thân thanh tịnh tâm, dựa vào Như Lai Tạng…” (34-340).

Ở đây nói Mật tông coi bạch Minh điểm quán tưởng ra là A Lại Da (thức), chứ không coi Thức thứ tám mà Phật thuyết là A Lại Da, có thể nói đây là một ví dụ thực tế về việc họ đã tự ý giải thích danh tướng Phật pháp. Như vậy, chứng được Minh điểm “A Lại Da” đó xong, họ lại chế giễu những người chứng ngộ của Hiển tông là chỉ có chứng lượng A Lại Da thức thô bạc. Kỳ thực, đó là ông nói gà bà nói vịt, chứng lượng khác nhau xa. Chứng được Minh điểm như thế, mà tự nói mình đã chứng được A Lại Da, rồi khoa trương nói với người Hiển giáo rằng: “Các anh chỉ chứng được A Lại Da, chứng lượng thô thiển như vậy mà dám đứng ra bình luận người khác. A Lại Da thức trong Mật tông của chúng tôi, chỉ là cảnh giới chứng lượng của những người mới nhập môn, chúng tôi còn chứng được Chân Như ở Phật địa cao hơn, cho nên mới có thể tức thân thành Phật. Các anh chứng lượng quá nông cạn, không nên đứng ra phê bình người khác”. Thế nhưng họ lại không tự biết mình đã hiểu sai hoàn toàn về Phật pháp, lầm coi Thức thứ tám Chân thực Tâm giải thích thành Minh điểm, râu ông nọ cắm cằm bà kia, lại còn quay sang giễu bậc Hiền Thánh đã chứng ngộ của Hiển giáo có chứng lượng thô thiển. Các thượng sư cổ kim của Mật tông như thế nhiều không kể xiết (đông như bầy cá giếc qua sông), cho nên mới gọi là đám tông đồ cuồng Mật.

Lại còn có thuyết cho rằng Thức thứ tám A Lại Da nằm trong quả tim thịt, sau đó nói Thức thứ tám tàng chứa Như Lai Tạng trong đó: “Thậm thâm nội nghĩa tuy đã nói đến tu trung, trụ trung, nhưng chỉ nói vị trí trụ trung, nhưng không nói đến vị trí tu trung. Nay giới thiệu ba thuyết: ‘Một là ở gân trong xương sống; Hai là trong cột sống có một thứ như là đuôi ngựa; Ba là không có”. Đúng như nói rằng trong Thức thứ tám có tàng chứa Như Lai Tạng, nhưng đó không phải là quả tim thịt, mà là quả tim thịt có Thức thứ tám và mệnh khí, không thể nói thẳng rằng quả tim thịt này và mệnh khí là Như Lai Tạng”. (34-91)

Ý của đoạn văn trong “Trát mạc nang đôn – Thậm thâm nội nghĩa” này là nói trong Thức thứ tám có tàng chứa một cái Như Lai Tạng, mà tạng Thức thứ tám này nằm ở trong trái tim bằng thịt (của mỗi người). Thuyết này hoàn toàn khác với lời Phật, cũng trái ngược với chứng lượng của những người chân ngộ. Bởi Phật nói Thức thứ tám chính là Như Lai Tạng, ở quả vị chúng sinh (giai đoạn phàm phu) thì gọi là A Lại Da thức, ở quả vị giải thoát (khỏi sự) hiện hành của phiền não chướng thì gọi là Thức Dị thục thứ chín, ở Phật địa cứu cánh thì gọi là Thức Vô cấu thứ mười – tức Chân Như. Trước khi thành Phật thì gọi chung là Như Lai Tạng, cho nên A Lại Da thức và Như Lai Tạng không phải là một, cũng không hề khác nhau (phi nhất phi dị), A Lại Da thức và Chân Như ở Phật địa cũng không phải là một, nhưng không hề khác nhau. Vì Thức thứ tám có đầy đủ chủng tử công năng giúp cho chúng sinh tương lai thành Phật, cho nên mới nói “Trong Như Lai Tạng tàng Như Lai”, vì thế mà gọi là Như Lai Tạng. Không phải như các tổ sư Mật tông xưa nay vẫn đem Thức thứ tám và A Lại Da thức chia thành hai vật khác nhau, cũng không phải như các tổ sư Mật tông xưa nay đem A Lại Da thức và Như Lai Tạng một chia thành hai.

Các tổ sư Mật tông xưa nay hiểu nhầm Phật pháp một cách phổ biến, tự lấy ý mình để giải thích ý nghĩa của danh tướng trong Phật pháp, sau đó tự nói mình đã chứng được Phật pháp Đại thừa, rồi lại phát minh ra cảnh giới trong Tam giới thế tục, rêu rao cảnh giới đó chính là cảnh giới Phật địa, rồi tự nói mình đã chứng được Chân Như ở Phật địa. Tìm hiểu sự thực thì cái gọi là “Chân Như ở Phật địa” mà họ đã chứng được chỉ là cảnh giới hữu lậu của Ý thức mà thường kiến ngoại đạo chứng được, còn không thể biết Thức thứ bảy của mình ở đâu, huống hồ có thể chứng được Thức thứ tám A Lại Da của mình ư? Thế mà cuồng ngôn nói mình đã chứng được Chân Như ở Phật địa, dùng để hạ thấp chứng lượng của những người tu hành Hiển giáo là thô thiển, đảo lộn cả gốc ngọn.

Lại còn có thuyết nói Thức thứ tám ở trong Trung mạch thế này: “…Từ Mật xứ nối liền đến Đỉnh đầu, đầu trên có bản thể màu trắng “A”, là Minh điểm của cha, to như hạt cải nằm trên đó. Dưới rốn thì có Minh điểm của mẹ, có bản thể màu đỏ, gọi là chữ A ngắn. Trong chữ A có Thức thứ tám trụ ở đó, và có đầy đại mệnh khí mà nó nương dựa, bên trong rỗng như hư không” (“Thậm thâm nội nghĩa”: 34-370).

Thức thứ tám mà Mật tông nói đó nằm bên trong chữ A do quán tưởng mà thành ở trong Trung mạch của cơ thể, hoàn toàn khác với những gì Phật thuyết. Phật dạy Thức thứ tám có tứ biến: Biến nhất thiết thời (bao trùm lan khắp mọi thời gian), Biến nhất thiết thức, Biến nhất thiết giới và Biến nhất thiết xứ. Thế nào là Biến nhất thiết xứ? Nên biết rằng Thức thứ tám có mặt ở Thập nhị xứ trong cơ thể, vậy mà sao các tổ sư Mật tông xưa nay chỉ nói Thức thứ tám trụ ở trong một chốn (xứ sở) nào đó trong Trung mạch? Vì sao các thày Mật tông lại nói hoàn toàn khác với Pháp mà Phật nói như vậy, mà lại bảo đó là Phật pháp? Vì sao dựa vào “chứng lượng” tu bằng ngoại đạo pháp trái với Phật thuyết mà dám nói sự tu chứng Phật pháp của họ cao hơn cả tu chứng bên Hiển giáo? Vì sao sự tu chứng bằng pháp ngoại đạo như thế lại có thể nói là tu chứng Quả địa trong Phật pháp, để rồi hạ thấp sự tu chứng của Phật pháp chân thực bên Hiển giáo chỉ là tu chứng Nhân địa? Rồi cuồng ngôn nói tu chứng của Hiển giáo không thần tốc bằng Mật tông? Làm gì có lý như vậy chứ!

Có lúc họ lại nói Thức thứ tám ở Tâm luân, như “Trát mạc nang đôn – Thậm thâm nội nghĩa” nói thế này: “Lúc ngủ tuy tải nhiều, nhưng lấy Thức thứ tám làm chính, trụ ở trên Pháp luân giữa tâm, …Trong này khi ngủ say, tám thức chủ yếu là Thức thứ tám, trụ ở Tâm luân. Sáu thức đầu không hiển rõ, cũng đều tập trung ở đây. Khi tất cả hữu tình trụ, thì cái này rối loạn. Khi thanh tịnh, đắc quả quang minh”. (“Thậm thâm nội nghĩa”: 34-428).

Trong đoạn văn trên, họ cũng hiểu sai rất nhiều về nội dung Chủng trí Phật pháp. Như trên đã nói, Phật thuyết Thức thứ tám A Lại Da không trụ ở trong Tâm luân bên trong Trung mạch, mà là lan khắp tất cả mọi nơi (Biến nhất thiết xứ), ở đây không nhắc lại. Ý thức kỳ thực cũng không phải là tập trung ở trong Tâm luân bên trong Trung mạch lúc ngủ say, cũng không phải là không hiển rõ. Thực tế là khi ngủ say, Ý thức theo đó mà đoạn diệt, không còn tồn tại, bởi Phật đã nói Ý thức chắc chắn sẽ đoạn diệt trong Ngũ vị như lúc ngủ say…

Lại nữa, trong lúc tỉnh giấc, Ý thức và năm thức đầu cũng không ở trong Trung mạch, cũng không ở trong thân hay ngoài thân, mà ở ở chỗ của năm Thắng nghĩa căn. Vì sao lại nói vậy? Vì Phật thường khai thị thế này: “Chỗ Căn Trần tiếp xúc sinh ra Nhãn thức, cho đến Chỗ Căn Trần tiếp xúc sinh ra Ý thức”. Con người chúng ta từ khi sinh ra đến nay chưa từng tiếp xúc với ngoại Ngũ trần, từ vô thủy kiếp đến nay đều đã như thế rồi. Nói chúng ta tiếp xúc với Ngũ trần chính là tiếp xúc với Ngũ trần Nội tướng phần (Do Như Lai Tạng trì ngũ Phù trần căn và ngũ Thắng nghĩa căn, tiếp xúc ngoại Ngũ trần mà đối hiện ra ngũ trần cảnh (của) nội Ngũ trần tướng phần ở chỗ Thắng nghĩa căn, như thế thì Ý căn Mạt Na thức tiếp xúc với Pháp trần trên Ngũ trần, sau đó gọi Lục thức như Nhãn thức (Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý thức) tiếp xúc với Lục trần, cho nên Lục trần mà chúng ta tiếp xúc đều là Lục trần Nội tướng phần. Vì Ý thức là Tâm, không phải là Sắc pháp thì không thể tiếp xúc trực tiếp với sắc pháp ngoại Ngũ trần được, buộc phải nhờ Ngũ trần tướng “Nội tướng phần” tựa như chất cảnh do Như Lai Tạng đối hiện ra ở đầu não Thắng nghĩa căn, thì tiền Lục thức mới có thể tiếp xúc được). Nội tướng phần chỉ hiện tiền ở đầu não Thắng nghĩa căn, thì nghĩa là chỉ có ở “xứ - chỗ” tiếp xúc Căn Trần ở não bộ này mới sinh ra sáu thức đầu, vì thế mới biết rằng Lục thức không thể hiện hành ở trong Trung mạch, thực sự chỉ hiện hành ở “xứ - chỗ” ngũ Thắng nghĩa căn nơi não bộ thôi.

Lại nữa, vì Căn Trần bất định, không thể nói Ý thức nhất định phải ở một chỗ nào trong não bộ. Tâm lục thức đã không phải là Sắc pháp, cũng không thể nói ở trong thân hay ngoài thân. Cho nên, câu “Khi ngủ say, Ý thức không đoạn mà trụ ở Tâm luân trong Trung mạch” nói trong “Thậm thâm nội nghĩa” hoàn toàn là hư vọng, không phải là Phật pháp thực sự.

Mật tông có lúc thì lại cho rằng Như Lai Tạng thuần tịnh, còn Thức thứ tám A Lại Da là vọng; thuần là chủng tử dẫn đến sinh tử, đầu thai, chứ không như Thức bản tính thanh tịnh mà Phật nói: “Cái Tâm không thanh tịnh là chỉ tám thức, như Tập luận (của Mật tông) nói: ‘Cái gọi là Tâm, bởi Uẩn Xứ Giới và tất cả tập khí hun nhiễm, gọi là tất cả các loại A Lại Da, do các hư vọng lần lượt nối tiếp nhau. Tam giới cũng do Tâm hàm nhiếp, là căn bản của tất cả “hữu phúc”, phải nhờ tất cả Phật trí mới có thể phá hủy”…Lại nữa, Thế Thân tụng thứ 30 nói: “Trong A Lại Da thức, tất cả chủng dị thục, thường (tiếp) xúc và tác ý, có đủ Thọ Tưởng tư. Trong này duy xả Thọ, là vô phúc vô ký, hằng chuyển như nước mạnh, xả (quả) vị A La Hán”. Cái A Lại Da nói trong này, nếu không thêm chữ “Thức”, thì nghĩa của nó là Tổng căn bản, thì cũng coi như là Chân Như, cho nên gọi là A Lại Da. Về cảnh giới của nó mà nói, tức có nghĩa của dị thục và chủng tử, có nhân duyên qua lại với bảy thức còn lại. Tất cả có thể tập hợp ở đó, cho nên gọi là dị thục… Cái gọi là “xả vị A La Hán” là chỉ Phật vị, bên Tiểu thừa nếu đoạn chỗ dựa của đại phiền não của cái Ngã bổ đặc già la (chúng sinh), chỉ có thể nói là xả phần mà thôi” (“Thậm thâm nội nghĩa”: 34-337).

Các thày Mật tông hiểu sai về chỉ ý của Chủng trí như vậy, tự giải nghĩa kinh chỉ của Phật một cách bừa bãi, rồi dùng để dẫn dắt sai lầm chính mình và các người học. Phật vẫn luôn nói A Lại Da thức bản tính thanh tịnh, mọi thứ vận hành của nó đều lìa tham, ghét, không bị dính ô nhiễm bởi các pháp trong Lục đạo Tam giới, cũng có Tự tính thường trụ bất hoại và hằng lợi chúng sinh, cũng là Thực Tế của Niết Bàn vô dư. Nếu theo như các thày Mật tông nói, thì Niết Bàn vô dư cũng không còn thanh tịnh, giống như cảnh giới thế tục, bởi A Lại Da thức là Thực Tế của Niết Bàn vô dư. Qua đó có thể thấy các thày Mật tông hoàn toàn không hiểu gì về Niết Bàn và Phật Bồ Đề trí cả.

Lại nữa, cái tên A Lại Da, bất luận có thêm chữ “Thức” hay không, thì cũng chẳng có gì khác biệt, vẫn là Thức thứ tám, không phải như Mật tông nói vì có thêm một chữ “Thức” thì có khác biệt.

Lại nữa, cái câu “xả vị A La Hán” của A Lại Da thức, là nói cái Thức thứ tám A Lại Da sau khi tu đoạn Phiền não chướng, không còn sự hiện hành của Phiền não chướng nữa, cho nên không còn thu giữ tất cả các chủng tử Phiền não chướng tạo mới mà có thể dẫn đến thụ sinh trở lại. Khi đã đoạn trừ được Phiền não chướng như thế, thì Thức thứ tám đổi tên thành Dị thục thức hay Am Ma La thức, cho nên xả (bỏ) cái tên A Lại Da, vì cái tên A Lại Da tức là mang nghĩa “có thể tàng chứa chủng Phiền não chướng”, chứ không như các thày Mật tông nói là xả bỏ cái thể Thức thứ tám đi. Cho nên, A Lại Da thức không phải là thức thuần vọng, cũng không phải là thức có thể xả bỏ, vì tất cả chư Phật trong ba đời cũng đều không thể nào xả bỏ được Thức thứ tám đi cả, huống hồ các thày trò phàm phu của Mật tông sao có đủ sức mà xả bỏ nó đi? Tuyệt không có lý ấy. Vì xả bỏ nó tức là thành pháp đoạn diệt vô (đoạn diệt không) rồi, vì như thế Thức thứ tám không còn là Tâm Kim Cương nữa, là trái với Phật thuyết. bởi tất cả những người thực sự chứng được Thức thứ tám A Lại Da đều có thể hiện tiền chứng thực Thức này không ai có thể xả bỏ được.

Lại nữa, cái “tên” A Lại Da thức, ở quả vị A La Hán đã có thể xả bỏ (tên đó) rồi, chứ không phải như Mật tông nói ở Phật vị mới bỏ. Nếu không, thì phải nói rằng “Ở Phật vị mới có thể đoạn trừ sự hiện hành của Phiền não chướng”, mà không phải là “Ở Phật vị là đoạn tận tất cả chủng tử tùy miên của Phiền não chướng”; đồng thời cũng nên nói là “Ở Phật vị mới lìa được phân đoạn sinh tử, còn A La Hán thì chưa lìa được phân đoạn sinh tử”, mà như thế thì trái với điều Phật nói và sự thật chứng lượng trên phương diện tu chứng. Cho nên mới nói các thày Mật tông đã hiểu sai về Phật pháp một cách vô cùng nghiêm trọng, những gì họ nói quả thật không phải là Phật pháp.

Mật tông có lúc còn cho rằng A Lại Da thức là pháp hữu sinh, cùng là nhân duyên lẫn nhau với tất cả chư pháp phiền não để được sinh ra: “Ở chỗ quả tướng đó, theo pháp tạp nhiễm A Lại Da, và tập khí từ vô thủy đến nay của nó sinh ra quả pháp. Tập khí này sinh ra, pháp trắng đen đều có. Tuy rằng có diệt hoại, nhưng Tâm của nó nối tiếp nhau, lại từ đó sinh ra, là nhân của tất cả phiền não, tức là A Lại Da thức. Mà tất cả chư pháp phiền não, lại là nhân và duyên của A Lại Da thức đấy!” (“Thậm thâm nội nghĩa”: 34-339-7).

Những lời giải thích đó đều là hiểu sai ý Phật. Cái mà Phật nói là thể tính thanh tịnh của A Lại Da thức, nhưng vì Thất chuyển thức tạo tác ra các loại ác nghiệp, khiến cho A Lại Da thức không ngừng lưu xuất ra chủng tử phân đoạn sinh tử luân hồi, dẫn đến sự luân chuyển sinh tử trong Tam giới của chúng sinh. Nếu A Lại Da thức không thu tập, tàng chứa các chủng tử phân đoạn sinh tử nữa, thì sẽ không còn hiện tượng Thất chuyển thức luân hồi sinh tử của chúng sinh, cho nên mới nói tất cả các pháp phiền não của phân đoạn sinh tử lại là nhân và duyên của A Lại Da thức, chứ không phải là A Lại Da thức vì nhờ có tất cả các pháp phiền não mà được sinh ra. A Lại Da thức từ vô thủy đến nay, chưa từng bị diệt, thì sao lại có thể sinh ra? Sao lại nói có nhân và duyên (để được) sinh ra? Sao lại có thể nói A Lại Da thức Tâm nó nối tiếp nhau, lại từ đó sinh ra? Không đúng chính lý chút nào cả!

Trong Đạo chủng trí, Phật nói về việc A Lại Da thức và vọng tâm bảy thức đầu là nhân duyên của nhau, là nói A Lại Da thức vì do có vọng tâm bảy thức đầu tạo tác các nghiệp mà thành chủng tử, (chủng tử này) lưu giữ trong A Lại Da thức, khi gặp duyên thì hiện hành, cho nên khiến cho A Lại Da thức lưu chuyển trong Lục đạo Tam giới – tức nói vọng tâm bảy thức đầu là nhân và duyên khiến cho A Lại Da thức lưu chuyển trong Lục đạo Tam giới. Lại nói các nghiệp chủng và chủng Phiền não chướng huân tập trong các đời trước được lưu giữ trong A Lại Da thức, chính là nhân và duyên khiến cho Thất thức tâm đời này và đời tương lai được sinh ra, cho nên mới nói A Lại Da thức và bảy thức đầu là nhân duyên của nhau, chứ không phải là nói “tất cả chư pháp phiền não là nhân và duyên của A Lại Da thức”, bởi A Lại Da thức là kẻ chấp trì tất cả các chủng tử pháp phiền não, còn tất cả phiền não thì không tương ứng với tâm hành của A Lại Da thức.

Mật tông có lúc còn nói A Lại Da là thể của chư thức, tự sinh rối loạn: “Cái gọi là thức là chỉ Thức thứ tám, từ một thức này sinh khởi ra các thức còn lại, từ cái thứ hai tạo tác các phiền não, sinh ra phân biệt về cảnh nên gọi là tướng, cho nên chia thành hai loại vô gián ý và niệm Ngã ý”. (“Thậm thâm nội nghĩa”: 34-344).

Trong đoạn văn này nếu đã nói các thức đều do A Lại Da thức sinh ra, thì không nên nói tâm của A Lại Da thức tương tục (nối tiếp nhau), lại từ cái kia (bảy thức đầu) sinh ra. Thành ra, lời nói tự mâu thuẫn nhau, bởi A Lại Da thức chưa từng tạm ngừng hoặc đoạn diệt trong một sát na nào, thì sao có thể nói từ cái kia sinh ra. Cho nên, những gì mà “Thậm thâm nội nghĩa” nói, trước sau mâu thuẫn với nhau, chứng tỏ không phải là lời nói của kẻ ngộ thật.

Các thày Mật tông còn thường ngộ nhận A Lại Da là Thức hữu thủ: “Lại nữa, các hữu tình tương hợp trên tự thể nó, cho nên cũng nói A Lại Da thức là Thủ thức. “Giải thâm mật kinh” nói: “Thủ thức rất thâm tế, các chủng như dòng xiết, sợ nó chấp là Ngã, dị sinh tiền không nói”. Đây là nhân của tất cả tịnh sắc căn, là gốc thủ giữ tất cả các thân, cho đến khi tận hình thọ, khi ngũ tịnh sắc căn chưa biến đổi, có thể nhiếp trì. Khi sinh tử nối tiếp nhau, lại có thể hình thành thân khác, là do cận thủ, do có thể trì thân, cho nên gọi là Thủ thức”. (34-338-12)

Thế nhưng, câu “A Lại Da là Thủ thức” nói trong kinh Duy Thức, không phải là tính nó ô nhiễm nên thủ lấy thân Tam giới, mà là nói vì sự chấp trước của Ý (căn) ô nhiễm, cho nên khiến cho A Lại Da thức thủ lấy sắc pháp trong Tam giới để hình thành thân của anh ta, chứ không phải là A Lại Da thức tự ý thủ lấy thân Tam giới. Khi đã thành thân Tam giới rồi thì mới lại chấp trì thân đó. Vì nó (A Lại Da) có thể thủ lấy chủng tử tứ đại trong Tam giới, có thể trì giữ thân Tam giới, cho nên gọi là Thủ thức, chứ không phải là nói A Lại Da thức tự bản thân nó sinh khởi ý ô nhiễm trong Lục trần Tam giới mà thủ lấy vạn pháp Lục trần.

Lại nữa, A Lại Da thức đã là nguyên nhân của thân căn, thì mệnh của người đó đáng ra cũng phải do Thức này trì giữ, thì sao các thày Mật tông lại nói mệnh khí là do Minh điểm trong Trung mạch trì giữ? Tự mâu thuẫn với lời nói của chính mình, trước sau trái ngược, không đúng chính lý chút nào.

Trong kinh Chủng trí Duy Thức, Phật nói A Lại Da thức “là vô phúc vô ký, A La Hán vị xả”, là nói xả bỏ cái tên A Lại Da (danh từ), chứ không phải là xả bỏ cái thể Thức thứ tám này. Thế nhưng, các thày Mật tông hiểu nửa vời, ngộ nhận ý chỉ trong kinh nói xả A Lại Da, nên cho rằng cần phải tiêu diệt cái Thức thứ tám này, cho rằng phải đoạn trừ nó: “Ban đầu luyện tập từ trong nghi quỹ mà có đối trị viên mãn thứ nhất. Sau khi quán không, tức từ trong Không tính sinh ra chủng tử Chân Như, chủng tử này vừa là chủng tử thụ sinh, đã lìa khỏi chủng tử nghiệp lực của chúng sinh thông thường. Từ chủng tử này chuyển thành thân Bản tôn, lúc này thay thế cho thân xác thịt của phàm phu, mà không có sinh (ra) Hữu trong nghiệp lực của anh ta. Thức thứ tám đi sau đến trước làm ông chủ trong luân hồi thì đã tiệt đoạn rồi”. (34-70)

Các thượng sư Mật tông xưa nay đều giải thích Phật pháp theo ý mình như thế, tình hình cực kỳ nghiêm trọng, không phải chỉ là một người mà tất cả đều như vậy cả, khiến cho những người tu học pháp môn Mật tông học được những tri kiến Phật pháp vô cùng hỗn loạn, dẫn đến kết quả tu lâu không chứng, cũng dẫn đến hậu quả tu mà chứng sai, phạm đại vọng ngữ nghiệp.

Lại như “Thậm thâm nội nghĩa” nói: “Do Phật thực hành vô thượng Kim Cương thừa, đã thành cứu cánh, chiến thắng tất cả vi phẩm. Trong tất cả các pháp, người giải thoát thân nghiệp của mình, có thân hư không, vô vi tùy ý vận hành, thành biện tự thể, Thức thứ tám diệt trừ, thanh tịnh vô sinh vô diệt, Niết Bàn đại cứu cánh. Luận sư Nguyệt Xứng nói: “Cái củi đã biết có thể đốt cháy, bên trong đó là Pháp thân Phật tịch tĩnh, khi đó vô sinh cũng vô diệt, tâm diệt hiện chứng Pháp thân Phật”. Cái gốc được tịnh là tâm Thức thứ tám, đã diệt rồi, cái tên đối trị của nó gọi là chứng trí kiến Như Lai. Vì pháp giới cực thanh tịnh, là thân hư không”. (34-510)

Đem diệt trừ cái Thức thứ tám rồi, mà có thân hưu không tồn tại, đó quả là hư vọng tưởng của các thày Mật tông. Bởi tất cả các pháp đều do Thức thứ tám sinh ra, bảy thức đầu cũng từ Thức thứ tám này sinh ra, nay (Mật tông) lại nói “đem diệt trừ Thức thứ tám”, thì sao còn có thể sinh ra “thân hư không”? Có khác gì người ta nói: “Đem nước đun khô kiệt, thành tựu tính ướt cực tịnh”, thật đúng là vọng tưởng của kẻ ngu si mới nghĩ ra được.

Lại nữa, Đại Niết Bàn và Niết Bàn vô dư đều phải dựa vào Thức thứ tám mà lập tên: Đoạn trừ sự hiện hành của Phiền não chướng, sau khi xả thọ (chết), không còn thụ sinh (đầu thai) nữa, duy chỉ còn lại Thức thứ tám lìa kiến văn giác tri tồn tại một mình, nên gọi là Niết Bàn vô dư; Đoạn tận tập khí chủng tử tùy miên của Phiền não chướng, và đoạn tận tất cả Vô minh tùy miên của Sở tri chướng, Thức thứ tám có đủ hai pháp này thì mới gọi là Đại Niết Bàn. Đó là nội dung Phật nói trong chư kinh Duy Thức thuộc Tam chuyển pháp luân, cho nên “cảnh giới” Niết Bàn vô dư và Đại Niết Bàn đều phải dựa vào sự thanh tịnh (khác nhau) của Thức thứ tám mà đặt tên, thì sao có thể đứng ngoài Thức thứ tám, đem Thức thứ tám diệt trừ xong mà nói về giải thoát?

Như kẻ ngu lìa bỏ cái thể của nước mà bảo có tính ướt, cho nên các thày Mật tông cũng ngu si như vậy, lìa bỏ Thức thứ tám mà nói có Niết Bàn để chứng, diệt trừ Thức thứ tám mà nói có thể chứng được Niết Bàn, rõ ràng là những kẻ không hiểu gì về Phật pháp cả. Mà Thức thứ tám, tính như Kim Cương, cho dù chư Phật thập phương hợp tất cả thần lực của họ lại thành một lực cũng không thể nào diệt trừ được cái thể Thức thứ tám của bất kỳ chúng sinh thấp kém nào, huống hồ các thày Mật tông không có tý thần lực nào mà nói có thể diệt trừ được thể Thức thứ tám của chính mình. Tuyệt không có lý ấy.

Các thày Mật tông đã vọng thuyết diệt trừ Thức thứ tám như thế rồi, nhưng người đời sau còn đem hình ảnh Bản tôn do quán tưởng mà thành ra nói rằng như thế đã trừ được thân phàm phu, chuyển thành thân Phật: “…Cái xí, là chỉ cờ tiêu cầm trong tay, ví dụ như chuông, chùy…Hợp nhất, là nói ôm Phật Mẫu (Minh Phi). Cái này thuộc về Hách Lỗ Cát, là ngũ tướng thành thân trong bộ Vô thượng Yoga. Là viên châu thứ bảy, đối trị thân sinh hữu của phàm phu. Dựa vào bộ Vô thượng Yoga sinh khởi thứ đệ, thực sự sinh khởi tướng đầu, mắt, râu, mày của Bản tôn, không chia thô tế, đều rất rõ ràng kiên cố. Phật mạn không quên, thẳng tiến cho đến chứng được ảnh Phật viên mãn, là viên châu thứ tám, đối trị thân sinh hữu của phàm phu”. (34-72)

Nếu như nói Thức thứ tám là Minh điểm bên trong Trung mạch do quán tưởng mà thành, rồi diệt trừ Minh điểm (Thức thứ tám) này, nói vậy còn thông được. Nhưng nếu nói cái bị diệt trừ là A Lại Da thức mà Phật thuyết, thì không thông được. Bởi A Lại Da thức mà Phật giảng ở đây chính là Thức căn bản của chúng sinh hữu tình, cũng là Thức căn bản của A La Hán (cũng gọi là Dị Thục thức), cũng là Thức căn bản của chư Phật thập phương – Chân Như (còn gọi là Vô Cấu thức). Thức thứ tám này mãi mãi không thể diệt trừ được, cũng không có ai, bất cứ thánh nhân nào có thể diệt trừ được nó, thì sao các thày Mật tông mỗi lần khai thị đều nói mọi người phải diệt trừ nó? Nếu quả thực có người nào có thể diệt trừ nó, thì Thức thứ tám này không phải là Kim Cương tâm nữa, vậy tại sao “Kinh Kim Cương” lại nói nó là Kim Cương tâm? Cho nên, câu “diệt A Lại Da thức” của Mật tông chỉ là tà thuyết, trái ngược với kim ngôn của Phật, không phù hợp với thánh giáo lượng, không phải là Phật pháp.

Pháp nghĩa mà các thày Mật tông nói thường hay tự mâu thuẫn với chính mình. Ví dụ phần trước đã nói cần phải diệt trừ Thức thứ tám, nhưng bọn họ cho rằng còn có Thức thứ chín đồng thời tồn tại với Thức thứ tám khi thành Phật, đốp nhau chan chát: “…và khai mở các mạch trí tuệ, để thăng hoa Minh điểm trắng đỏ. Minh điểm là trí tuệ; Điểm tức là cái tinh hoa của nó (trí tuệ). Nó nằm ở trên tham phiền não thô nặng (trên cái tham không thể chịu nổi cơn cực khoái tình dục dâm lạc mà sắp sửa xuất tinh đến nơi, đó gọi là tham phiền não thô nặng), lấy trí thẩm thấu, thẳng đến thức thứ chín chuyển thành Ngũ trí: Năm thức đầu chuyển thành Thành sở tác trí, thức thứ sáu chuyển thành Diệu quan sát trí, thức thứ bảy là Bình đẳng tính trí, thức thứ tám là Đại viên kính trí, thức thứ chín chuyển thành Pháp giới thể tính trí.” (34-76)

Thế nhưng, thực tế Phật chỉ nói đến tám thức, không có Thức thứ chín. Nay tôi chỉ lược thuật duyên khởi môn Chân Như của thức thứ tám, chín, mười như sau để giúp các Phật tử có được chính tri, chính kiến: Tất cả chúng sinh hữu tình đều có Thức thứ tám, vì có chủng tử ô nhiễm của phân đoạn sinh tử và các nghiệp chủng đã tạo, cùng với chủng tử bảy thức đầu có Tập tàng tính (A Lại Da tính) tàng chứa phân đoạn sinh tử nên gọi Thức thứ tám này là A Lại Da thức. Sau khi nghe pháp đạo Giải Thoát mà Kiến đạo, rồi tiếp tục tu đạo đoạn trừ Tư hoặc, không còn có A Lại Da tính nữa (không còn Tập tàng tính tàng chứa chủng phân đoạn sinh tử nữa), trở thành A La Hán, lúc này Thức thứ tám của anh ta đổi tên là Thức thứ chín – Dị thục thức, còn gọi là Am Ma La thức. Kỳ thực, nó vẫn là Thức thứ tám, chỉ đổi cái tên mà thôi, chứ không đổi bản thể.

Sau đó, tiếp tục nghe Phật giảng về đạo Đại Bồ Đề, lại hồi tâm sang Đại thừa, tiến tu đạo Phật Bồ Đề. Trải qua quả vỉ Thất trụ vị Minh tâm, chứng được Tổng tướng trí Bát Nhã, tiến tu Biệt tướng trí Bát Nhã giảng trong “Kinh Bát Nhã”; Lại không còn khởi tâm tự mãn nữa, tiến tu Nhất thiết chủng trí phải học ở chư địa mà sinh khởi Vô sinh pháp nhẫn, tiến vào Sơ địa, đến giai đoạn có thể đoạn tận Tư hoặc nhưng không đoạn nó, lưu một phần Tư hoặc để nhuận sinh đời sau, tiến tu lên các địa. Từ đó tiến lên, bắt đầu đoạn trừ tập khí chủng tử của phân đoạn sinh tử, tiến tu Nhất thiết chủng trí của Vô sinh pháp nhẫn, tăng lên từng địa. Đến khi Sơ địa mãn tâm là có thể thủ chứng Huệ giải thoát quả nhưng không thủ chứng, đến khi Tam địa mãn tâm có thể chứng Câu giải thoát quả của Diệt tận định nhưng cũng không chứng. Bồ Tát Sơ địa, Tam địa khi xả thọ đều có thể thủ chứng Niết Bàn vô dư nhưng không thủ chứng, từng bước tiến tu Chủng trí Duy Thức cho đến Lục địa, nhất định buộc phải thủ chứng Diệt tận định, nhưng vẫn không nhập Niết Bàn vô dư, tiến tu tiếp “Niệm niệm nhập Diệt tận định” của Thất địa, “Vu sắc biến hiện tự tại” của Bát địa, vô công dụng hành với đạo Giải Thoát, rồi tu “Dẫn phát Như Lai vô lượng Diệu trí tam muội”…do Phật truyền thụ…Cứ thế tu dần cho đến quả vị Đẳng giác, rồi lại xả thân thọ sinh khắp nơi trong một trăm kiếp (tu thêm phúc đức), bố thí đầu mắt não tủy thân chân tay…Sau khi bố thí vô lượng nội tài trong một trăm kiếp để tu tướng hảo, thì mới có đủ phúc đức ở quả vị Bồ Tát thân cuối cùng. Khi phúc đức đã đầy đủ, (Bồ Tát thân cuối cùng) bèn giáng sinh vào nhân gian, xuất gia tu hành, đoạn tận tập khí chủng tử Phiền não chướng phần cuối cùng còn lưu lại, đoạn tận Sở tri chướng tùy miên cực kỳ vi tế phần cuối cùng, mới thành cứu cánh Phật đạo. Lúc này, Thức thứ tám đổi tên thành Thức thứ mười, gọi là Vô cấu thức, còn gọi là Chân Như, hay là Chân Như quả địa. Tiến tu và thành Phật đạo như thế, gọi là đạo Phật Bồ Đề, cũng gọi là đạo Đại Bồ Đề, vì khác rất xa so với đạo Giải Thoát tu ở Nhị thừa Bồ Đề.

Cứ tiến tu như vậy, dần dần thay đổi nội hàm của Thức thứ tám, khiến cho A Lại Da tính và Dị thục tính của Thức thứ tám đoạn trừ tịnh tận, trở thành Vô cấu thức Chân Như, gọi là duyên khởi Chân Như. Phật nói như vậy trong các kinh là nói Chân Như ở Phật địa không phải do tu mà có, cũng nói Chân Như ở Phật địa không phải không tu mà có, vì thể vốn thường hằng tự tại, vì trong Tự tính thanh tịnh của Thức thứ tám lại có chứa các chủng tử ô nhiễm của Thất chuyển thức. Vì thế, Chân Như ở Phật địa phi tu phi bất tu, phi vốn có, phi phi vốn có, gọi là duyên khởi Chân Như. Cái “duyên khởi môn Chân Như” nói trong “Đại thừa khởi tín luận” chính là ý này. Người chưa Kiến đạo thì không biết lý này, thế nên mới phỉ báng cuốn luận đó là giả.

Từ chính lý đã thuật ở trên, có thể thấy chư Phật thập phương không hề có chín thức như các thày Mật tông nói, mà vẫn chỉ có tám thức. Cái tên thức thứ chín, thức thứ mười chỉ là bày đặt phương tiện, để chúng sinh biết rằng Thức thứ tám của phàm phu thì khác với Thức thứ tám của A La Hán, khiến cho các Bồ Tát, A La Hán biết rằng Thức thứ tám của họ khác với Thức thứ tám của chư Phật. Cho nên, chư Phật không có thức thứ chín đồng thời cùng tồn tại (với Thức thứ tám) mà thực tế vẫn chỉ có tám thức. Nhưng các thày Mật tông không hiểu ý Phật, vọng tự ý giải nghĩa, dùng để dẫn dắt sai lầm chúng sinh cùng nhập vào tà thuyết, thật không nên chút nào.

Như vậy, các thày Mật tông không biết cũng không chứng được Thức thứ tám A Lại Da, phủ định Thức thứ tám A Lại Da, sau đó còn sáng tạo riêng thêm thức thứ chín, nói đó là thức mà chỉ có “Phật” của Mật tông chứng được, dùng nó để nâng cao vị thế “Phật” của Mật tông, tự xưng Phật mà họ thờ phụng là Phật Đại Tỳ Lô Giá Na, tự rêu rao rằng còn thắng diệu hơn cả Phật Thích Ca Như Lai mà bên Hiển giáo thờ phụng, vì họ cái họ chứng được là thức thứ chín. Thế nhưng, quan sát nội hàm thức thứ chín mà “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” của họ chứng được thì vẫn chỉ là Thức thứ tám của phàm phu vị, vẫn còn chưa từng Kiến đạo, huống hồ là thành Phật?

Phật mà họ thờ phụng đó, kỳ thực chỉ là quỷ thần mạo danh thị hiện, chứ không phải là Tỳ Lô Giá Na Phật thật sự. Tỳ Lô Giá Na là Báo thân Phật, những gì Ngài tuyên thuyết đều là Nhất thiết chủng trí thậm thâm cực thậm thâm (đã rất thâm sâu còn thâm sâu hơn nữa) – tức là Nhất thiết chủng trí Duy Thức mà chỉ có bậc Bồ Tát địa thượng (Bồ Tát ở các quả vị Thập địa) mới được tu học, chỉ có bậc Bồ Tát chư địa nghe mới hiểu được. Các tông phái Mật tông đã bài xích rằng pháp môn Chủng trí Duy Thức của Tam chuyển pháp luân là pháp bất liễu nghĩa, chỗ nào cũng tìm cách hạ thấp pháp môn này, đồng thời suy tôn Trung Quán Bát Nhã của Tổng tướng trí, Biệt tướng trí trong Bát Nhã là pháp tối cứu cánh, thế nhưng “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” mà họ tôn sùng lại không thể nói về Chủng trí. Hơn nữa, trong “Kinh Đại Nhật” chỗ nào cũng nói về Duyên khởi tính không mà bảo rằng đó là Không tính Bát Nhã, điều này khác xa so với Không tính – Phi Tâm Tâm, Vô Tâm Tướng Tâm, Bất Niệm Tâm nói trong “Kinh Bát Nhã”, chứng tỏ rõ ràng rằng “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” mà Mật tông thờ phụng tuyệt đối không phải là Phật Đại Tỳ Lô Giá Na thật sự, mà là do các thượng sư Mật tông sáng tạo ra “Kinh Đại Nhật” để giả danh “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” mà hành pháp ấy. Hoặc là do quỷ thần giả mạo thị hiện, mượn danh nghĩa Phật giáo để cầu mong được cúng dường những vật bất tịnh như Ngũ nhục, Ngũ cam lộ… mà thôi.

Các thày Mật tông không chỉ không biết, không chứng được Thức thứ tám, mà còn phủ định nó, thường bảo đó là pháp “chia nhỏ từ Ý thức thứ sáu ra”. Họ còn hiểu sai chân chỉ của Như Lai Tạng, xây dựng riêng ra một hệ thống Như Lai Tạng khác, đứng ngoài Như Lai Tạng (thật sự) để nói về một pháp Như Lai Tạng khác. Thuyết tà trái hoang đường như vậy sẽ khiến cho tất cả các thượng sư và người học Mật tông đời nay, đời sau vĩnh viễn không thể chứng được Như Lai Tạng, bởi họ chắc chắn sẽ đứng ngoài Như Lai Tạng thực sự để cầu một cái Như Lai Tạng khác, bởi Thức thứ tám A Lại Da chính là Như Lai Tạng.

Chân lý về Thức thứ tám A Lại Da thậm thâm cực thậm thâm, đến các đại A La Hán không hồi tâm và các đại A La Hán tuy đã hồi tâm quay về Đại thừa nhưng chưa Minh Tâm còn không biết, phải đợi sau khi Minh Tâm mới biết, huống hồ là các thày Mật tông xưa nay chỉ là những người tự dùng, tự ý kiến giải, muốn đứng ngoài Thức thứ tám Như Lai Tạng để cầu một cái Như Lai Tạng khác, thì sao có thể chứng được nó?

Cho nên, vị “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” trong “Kinh Đại Nhật” do những người chưa chứng ngộ Như Lai Tạng Không tính sáng tác ra chỉ là Phật do vọng tưởng của phàm phu biên tạo ra, tuyệt đối không phải là Phật thật thị hiện để thuyết giảng chính pháp, bởi lẽ “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” trong “Kinh Đại Nhật” kia vẫn còn chưa chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng mà. Các thày Mật tông đã không biết, không hiểu gì về Đệ nhất nghĩa đế, lại còn tự ý sáng tạo ra các loại tà thuyết, đôn cao lên là pháp thắng diệu hơn cả Kiến địa của Hiển giáo; Họ lại còn đem các loại pháp môn tu hành của ngoại đạo vào để thay thế pháp môn tu hành chính xác vốn có trong Phật giáo, khiến cho Phật giáo dịch chuyển dần dần từ bản chất sang pháp môn tu hành của phàm phu ngoại đạo, nhập sâu hết vào tà đạo, vĩnh viễn đoạn tuyệt với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề thực sự của Phật giáo. Có thể nói sự tệ hại xấu xa này không hề nhỏ chút nào, nghiệp của họ không hề nhẹ chút nào. Những người học có trí tuệ nên hiểu rõ tính nghiêm trọng của vấn đề, nên biết rằng quả báo nặng nề trường kiếp trong tương lai không hề dễ tiêu hóa chút nào. Nếu có thể biết được đến đây rồi thì hãy kiểm điểm và lựa chọn chính xác.

 

 


Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 0